Căn cốt để phòng và chống 'tự diễn biến', 'tự chuyển hóa' trong nội bộ

Đặc biệt quan tâm công tác xây dựng Đảng nói chung, vấn đề rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng; trong đó, kết hợp chặt chẽ giữa rèn luyện đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân với phòng và chống 'tự diễn biến', 'tự chuyển hóa' trong nội bộ để Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là đội tiền phong của giai cấp và dân tộc theo chỉ dẫn của Hồ Chí Minh, nhằm tăng cường sức đề kháng, khả năng miễn dịch của mỗi người trước mặt trái của cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế là yêu cầu vừa cấp bách vừa thường xuyên của Đảng ta.

“NGƯỜI CÁCH MẠNG PHẢI CÓ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG LÀM NỀN TẢNG”

Trong những năm cuối thập niên 1950, miền Bắc đang tiến hành công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam đang tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hành trình đấu tranh cách mạng đầy gian khó đó đòi hỏi sự nỗ lực cao độ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, đặc biệt đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, tâm trạng thời bình, biểu hiện cá nhân chủ nghĩa, sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên đã không còn là hiện tượng đơn lẻ, đó đã là căn bệnh, trở thành nguy cơ “suy thoái” của một Đảng cầm quyền. Nhận thức rõ những gian nan, trắc trở, những khó khăn phức tạp của chặng đường trước mắt, và sớm tiên liệu được tình hình, với bút danh Trần Lực, Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Ðạo đức cách mạng”.

Kỷ niệm 60 năm tác phẩm "Đạo đức cách mạng" (12/1958-12/2018)

"Đạo đức Cách mạng" được in lần đầu trên Tạp chí Học tập (nay là Tạp chí Cộng sản), sau đó được Nhà xuất bản Sự thật (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật ngày nay) in thành sách và phát hành tháng 12/1958.

Là một cuốn sách mỏng, dày chưa đầy 20 trang, nhưng “Ðạo đức cách mạng” có nội dung phong phú; cách viết súc tích, văn phong giản dị, dễ hiểu, chứa đựng những tư tưởng lớn về đạo đức cách mạng. Trong đó, Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định vai trò quan trọng của đạo đức cách mạng, chỉ rõ kẻ thù, những nguy cơ rời xa đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên mà còn nêu rõ những biện pháp để ngăn ngừa và sửa chữa căn bệnh đó.

60 năm sau khi Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Đạo đức cách mạng” (12/1958 - 12/2018), những chỉ dẫn của Người vẫn vẹn nguyên ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn sâu sắc, thiết thực góp phần phòng và chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, thiết thực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Trong tác phẩm, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng, sự phát triển của các phương thức sản xuất, sự tiến bộ của xã hội loài người từ công xã nguyên thủy đến cộng sản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, không thể đảo ngược. Trong hành trình đó, đã xuất hiện giai cấp và cũng như một tất yếu khách quan: cuộc đấu tranh giai cấp giữa những người bị bóc lột và những kẻ bóc lột, giữa “bọn phong kiến địa chủ, bọn tư bản và đế quốc” và “những tầng lớp người khác, nhất là công nhân và nông dân” ngày càng quyết liệt. Vì vậy, để giành lấy thắng lợi trong cuộc đấu tranh đó, cách mạng nhất định phải do giai cấp công nhân và đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo, bởi đó là giai cấp tiên tiến nhất, giác ngộ nhất, kiên quyết nhất, có kỷ luật nhất và tổ chức chặt chẽ nhất. Điều này đã được lịch sử chứng minh và đó là xu thế tất yếu của thời đại.

Là Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc rằng, dù là tập thể của những con người tiên phong nhất, song Đảng cũng là một thực thể xã hội và mỗi cán bộ, đảng viên cũng là những con người cụ thể. Đặc biệt, là một Đảng macxit được xây dựng, trưởng thành ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, đội ngũ cán bộ, đảng viên vốn sinh trưởng trong chế độ xã hội cũ, nên vẫn mang trong mình, hoặc nhiều hoặc ít “vết tích xấu nhất và nguy hiểm nhất của xã hội cũ” về tư tưởng, về thói quen, tâm trạng thời bình, v.v.. Tất cả những biểu hiện đó chính là “chủ nghĩa cá nhân”, là “trái ngược với chủ nghĩa tập thể”, “là trái ngược với đạo đức cách mạng” và nếu còn lại trong mình, “dù là ít thôi, thì nó sẽ chờ dịp để phát triển, để che lấp đạo đức cách mạng, để ngăn trở ta một lòng một dạ đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng”[1]. Vì vậy, để giành thắng lợi trong công cuộc cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới - “cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ”, “người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”[2].

Lời nói và việc làm của đội ngũ cán bộ, đảng viên có tác động lớn đến quần chúng; do đó, trong bất kỳ tình huống khó khăn nào, mỗi người cũng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, để trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm đều là những người tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân, mà “- Giàu sang không thể quyến rũ, - Nghèo khó không thể chuyển lay, - Uy lực không thể khuất phục”[3].

Đề cao vai trò của đạo đức cách mạng, Người nhấn mạnh: người có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước, vì lợi ích chung mà không ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình, thậm chí sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình không tiếc,v.v.. “Đó là biểu hiện rất rõ rệt, rất cao quý của đạo đức cách mạng”. Có đạo đức cách mạng, thấm nhuần đạo đức cách mạng sẽ giúp mỗi người khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, không lo kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa,v,v..

Nhấn mạnh tầm quan trọng, vai trò của đạo đức cách mạng, Người cũng đồng thời chỉ rõ nội hàm đạo đức cách mạng mà mỗi cán bộ, đảng viên phải rèn luyện thường xuyên, liên tục, mỗi ngày là: “Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ” “là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, “là ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng” ; “là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”, “là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu”, “là vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết”, “ là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến quần chúng”[4]…

Đồng thời, Người cũng khẳng định, trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân ta, trong Đảng đã có rất nhiều những người con ưu tú như Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai, v.v.. đã vì dân, vì Đảng mà oanh liệt hy sinh, nêu gương chói lọi của đạo đức cách mạng, chí công vô tư, thực sự “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”; luôn “đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình...

Cũng theo Hồ Chí Minh, mỗi người cách mạng phải hiểu sâu sắc rằng: Đảng ta là một đội ngũ tiên tiến nhất và tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân và dân tộc, đồng thời là người lãnh đạo cách mạng. Do đó, mỗi người không chỉ phải nhận thức rõ sứ mệnh lịch sử vừa cải tạo thế giới mà còn phải luôn hiểu rõ nhiệm vụ tự cải tạo bản thân mình, rèn luyện đạo đức cách mạng để xứng đáng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

“CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN NHẤT ĐỊNH PHẢI TIÊU DIỆT”

Để xây dựng Đảng, giúp cán bộ, đảng viên nhận diện rõ kẻ thù, có biện pháp phòng và chống hiệu quả, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tên của từng kẻ địch, chỉ rõ mối quan hệ, liên minh giữa chúng khi nhấn mạnh: “Kẻ địch gồm có ba loại. Chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc là kẻ địch rất nguy hiểm. Thói quen và truyền thống lạc hậu, nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ… Loại địch thứ ba là chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản thường xuyên ẩn nấp trong mỗi con người”[5], nên chủ nghĩa cá nhân là đồng minh của hai kẻ địch kia, luôn sẵn sàng “chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu dậy”, đè bẹp ý chí cách mạng của mỗi người. Cũng theo Người, đạo đức cách mạng trái ngược với chủ nghĩa cá nhân, vì “chủ nghĩa cá nhân là trái ngược với chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa xã hội nhất định thắng, chủ nghĩa cá nhân nhất định phải tiêu diệt”[6].

Khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, nhận thức rõ sự suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh đã chỉ ra hiện tượng một bộ phận cán bộ, đảng viên do sa vào chủ nghĩa cá nhân nên “việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết”; “ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh, trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem kinh quần chúng, đọc đoán, chuyên quyền”; “họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh”, v.v.. khiến quần chúng nhân dân bất bình, thất vọng.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh: 1) Chủ nghĩa cá nhân “là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Mà ai cũng biết rằng xuống dốc thì dễ hơn lên dốc. Vì thế mà càng nguy hiểm”[7]. 2) Đó là thứ vi trùng mẹ, đẻ ra nhiều bệnh khác, trái với đạo đức cách mạng và chừng nào chủ nghĩa cá nhân còn lại trong mình, dù thật ít, thì chừng đó vẫn sẽ “ngăn trở” người cán bộ, đảng viên nỗ lực đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng, làm mất lòng tin cậy của nhân dân với Đảng và Chính phủ. 3) Chừng nào chủ nghĩa cá nhân vẫn còn ẩn náu trong mỗi cán bộ, đảng viên, dẫn đến sự suy thoái về đạo đức, lối sống, “ tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; vẫn xâm nhập vào “cơ thể Đảng”, làm giảm nguồn sức mạnh nội lực, sự đoàn kết thống nhất của Đảng, biến Đảng thành xa lạ, đối lập với nhân dân vẫn còn, thì chừng đó nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ vẫn còn hiện hữu.

Theo lời Người, những người sa vào chủ nghĩa cá nhân, mang nặng tư tưởng cá nhân chủ nghĩa là những người chưa làm được bốn chữ “chí công vô tư”, không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”. Đó là những người “tự thấy mình cái gì cũng giỏi”, ngại gian khó, kiêu ngạo, hiếu danh, tự ái, thiếu kỷ luật; đã “luôn đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc” luôn “tự tư tự lợi”, gây mất đoàn kết, chia rẽ nội bộ Đảng, làm mất dân chủ trong Đảng. Họ luôn “tự cao, tự đại, ham địa vị, hay lên mặt”, chỉ ưa người khác “tâng bốc mình, khen ngợi mình”, “ưa sai khiến người khác”, “không lấy Đảng làm nền tảng. Mình muốn làm thế nào thì làm thế ấy”, “tỏ ra khinh thường kỷ luật của Đoàn thể, làm rối loạn hàng ngũ của Đoàn thể”,v.v.. Kết quả là quần chúng không tin, không phục, càng không yêu quý họ, rời xa họ và “chung quy là họ không làm nên trò trống gì”[8].

Những biểu hiện của căn bệnh cá nhân chủ nghĩa này rất nguy hiểm, “rất tai hại cho Đảng, làm hại cho sự thống nhất”, “làm cho Đoàn thể mất cán bộ, kém nhất trí, thường hỏng việc” và “không thể phát triển”, vì làm mất sự thân ái, đoàn kết, gây mối nghi ngờ giữa những người đồng chí. Cũng theo Hồ Chí Minh, những cán bộ, đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân trói buộc chỉ muốn “phê bình người khác mà không muốn người khác phê bình họ; không tự phê bình hoặc tự phê bình một cách không thật thà, nghiêm chỉnh”; coi thường và không lắng nghe ý kiến của quần chúng, “xem khinh những người cán bộ ngoài Đảng”, “xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ, v.v.. nên sẽ lạc hậu, thoái bộ, dẫn đến nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất.

Trong khi đó, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên là quá trình “tự diễn biến” theo chiều hướng suy thoái, biểu hiện cả trong nhận thức chính trị, đạo đức, lối sống, tư tưởng, niềm tin và ý chí…; diễn ra trước hết trong mỗi con người, với các mức độ và biểu hiện khác nhau về phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống. Nếu không phòng và chống, “tự diễn biến” sẽ lan rộng trong nội bộ theo nhiều chiều hướng: từ một số cán bộ, đảng viên đến số đông, cán bộ, đảng viên, đến tổ chức mà cá nhân cán bộ, đảng viên đó công tác, sinh hoạt; từ cán bộ cấp thấp đến cán bộ cấp cao và chiều ngược lại - từ cán bộ cấp cao xuống cán bộ cấp thấp. Hơn thế nữa, “tự diễn biến” đến một mức độ nào đó sẽ chuyển sang “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên, dẫn đến lan rộng trong nội bộ, trong cả một tổ chức, nhất là tổ chức đảng và hệ thống chính trị; gây nguy cơ, làm rạn nứt khối đoàn kết, thống nhất từ tư tưởng, nhận thức đến hành động trong Đảng, làm suy giảm nguồn sức mạnh của Đảng, tính tiền phong của đội ngũ cán bộ, đảng viên mà còn trực tiếp đe dọa sự tồn vong của một Đảng cầm quyền, của chế độ

Vì vậy, để phòng và chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, mỗi cán bộ, đảng viên phải chủ động, tự giác phòng, chống và tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân để nâng cao đạo đức cách mạng. Đó vừa là yêu cầu tất yếu, thường xuyên, liên tục đối với quá trình rèn luyện, phấn đấu của mỗi cán bộ, đảng viên, vừa thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa xây và chống, trong xây có chống, trong chống có xây, nhằm xây dựng và chỉnh đốn Đảng.

PHÒNG VÀ CHỐNG "TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA" TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

Hồ Chí Minh không chỉ là người đầu tiên nêu ra và thực hiện một cách sinh động trong thực tiễn những chuẩn mực đạo đức cách mạng; không ngừng tuyên truyền, vận động mọi người cùng rèn luyện mà trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người đã cùng Đảng ta lựa chọn, lãnh đạo nhân dân Việt Nam theo lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cở sở xác định đạo đức cách mạng đúng đắn. Quá trình tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của Người cũng chính sự kế thừa đạo đức truyền thống dân tộc, tiếp thu những tinh hoa tư tưởng đạo đức của nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa nhân đạo cộng sản của học thuyết Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã không chỉ hướng đến mà còn dành cả cuộc đời mình, gắn bó chặt chẽ cuộc đời mình với lý tưởng cao đẹp: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, không màng đến vòng danh lợi. Cuộc đời Hồ Chí Minh thực sự là một tấm gương đạo đức cách mạng và nhân cách thanh cao của người chiến sĩ cộng sản hết lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân.

Với Người, dù còn hoạt động bí mật, bị giam cầm trong nhà tù đế quốc hay khi đã trở thành một nguyên thủ quốc gia, một Chủ tịch Đảng cũng vẫn luôn là một là vị lãnh tụ thường xuyên quan tâm, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phải thường xuyên, liên tục chống chủ nghĩa cá nhân, tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân để rèn luyện đạo đức cách mạng. Người đã không chỉ tiên liệu, đưa ra những cảnh báo về sự suy thoái đạo đức, lối sống, nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong mỗi cán bộ, đảng viên khi họ “thoái bộ”, rời xa nhân dân; chỉ rõ những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân cùng những phương thuốc đặc trị chúng mà chính Người còn là một tấm gương mẫu mực trong rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư... Hồ Chí Minh là Người mà “gia đình của Người là Nhân dân, là Đảng và Tổ quốc. Bởi lẽ đó, tất thảy điều gì Hồ Chí Minh dạy và làm, thì mọi người đều ngưỡng mộ và làm theo không chút đắn đo”[9].

Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, những nguy cơ dấn đến thoái hóa biến chất, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, Hồ Chí Minh đã không chỉ nêu ra những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chỉ rõ tên kẻ địch nội xâm nguy hiểm này mà còn đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ: 1) “Phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên. Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng”. 2) Chú trọng các nguyên tắc xây dựng Đảng; theo đó “chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ”. 3) Mỗi cán bộ, đảng viên phải “kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật”. 4) Trong mọi mặt công tác, “phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân”. 5) Luôn cầu thị, “cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ” [10]…

Theo đó, để xây dựng và chỉnh đốn Đảng, củng cố khối đoàn kết, kỷ luật của Đảng, chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, gương mẫu trước quần chúng, nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng và nhất là phải rèn luyện đạo đức cách mạng, kiên quyết phòng và chống chủ nghĩa cá nhân; phải thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình trên cơ sở có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, chứ không phải là đấu nhau, là “bới lông tìm vết”, “là ba phải”, “là trước mặt nói một đằng, phía sau làm một nẻo”… Chỉ có nêu cao tinh thần rèn luyện đạo đức cách mạng, quét sạch và tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân của người cộng sản mới giúp nhau sửa chữa tốt khuyết điểm, phát triển ưu điểm, làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi. Như vậy, thì đoàn kết và thống nhất nội bộ trong Đảng mới được củng cố, tăng cường, góp phần nhân nguồn sức mạnh nội lực của Đảng. Cũng theo lời Người, chỉ có làm được như vậy, mỗi người cán bộ, đảng viên mới tự cải tạo mình, tự tiến bộ, “để khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước”; để họ thực sự là những người cộng sản gương mẫu đi đầu, luôn vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc và của loài người mà không ngần ngại hy sinh cả lợi ích của cá nhân mình.

Cùng với thời gian, luận điểm Hồ Chí Minh nêu ra: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không còn trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”[11], đã không chỉ phản ánh đúng thực tiễn mà còn luôn là lời cảnh tỉnh có ý nghĩa sâu sắc đối với mỗi cán bộ, đảng viên, với mỗi tổ chức cơ sở Đảng trong hành trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, để xây dựng và chỉnh đốn Đảng, để phòng và chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ theo lời dặn và những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải nỗ lực rèn luyện, phấn đấu theo những yêu cầu sau:

Một là, trong mọi mặt công tác và cuộc sống đời thường, phải tự giác thực hiện Chỉ Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, với các Quy định số 47-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Những điều đảng viên không được làm”, Quy định 101-QÐ/TW ngày 7/6/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”, Quy định 55-QĐ/TW ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về “Một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”; Quy định 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viênBan Chấp hành Trung ương”… Qua đó, mỗi người hằng ngày đấu tranh với những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân: vô cảm, quan liêu, cửa quyền, hách dịch và các hành vi nhũng nhiễu, gây phiền hà nhân dân; kiên quyết chống tư tưởng cục bộ, bè phái và các biểu hiện cơ hội, thực dụng vì lợi ích cá nhân, “lợi ích nhóm”,v.v. như Hồ Chí Minh đã chỉ rõ.

Hai là, mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng phải nêu cao trách nhiệm gương mẫu, đi đầu của trên các mặt tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong, tự phê bình và phê bình, trong quan hệ với nhân dân, trách nhiệm trong công tác, ý thức tổ chức kỷ luật và đoàn kết nội bộ. Nội dung rèn luyện đạo đức cách mạng, nêu gương đạo đức cách mạng của mỗi người, tùy vị trí công tác và trách nhiệm được giao phải thể hiện ở tinh thần trách nhiệm, tận tụy, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; làm việc có nguyên tắc, kỷ cương, có lý, có tình, không lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong công tác, nói đi đôi với làm, đã nói thì phải làm; chống các hiện tượng chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, chạy thi đua, tư tưởng cục bộ, bè phái và các biểu hiện cơ hội, thực dụng vì lợi ích cá nhân, “lợi ích nhóm” và các biểu hiện tiêu cực khác trên tinh thần tất cả vì dân.

Ba là, để phòng và chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng phải khắc phục tình trạng “các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi vừa bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở cho công tác kiểm tra, giám sát… Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ; chưa chú trọng phát hiện và có cơ chế thật sự để trọng dụng người có đức, có tài; không kiên quyết thay thế người vi phạm, uy tín giảm sút, năng lực yếu kém”. Phải lựa chọn và đưa vào quy hoạch những cán bộ có đức, có tài, luôn tận tâm tận lực vì nhân dân phục vụ. Đồng thời, phòng chống sự suy thoái đạo đức, lối sống với 27 biểu hiện (trong đó có 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, 9 biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống, 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ) theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng và chỉnh đốn Đảng; từng bước đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên, của nhân dân vào Đảng và chế độ./.

TS. Văn Thị Thanh Mai

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, H, 2011, t.11, tr.602

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.601

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.50

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.603- 609

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.606

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.600

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr. 602

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.609

[9] Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh: Tham luận của đại biểu quốc tế, Nxb. Khoa học xã hội, H, 1990, tr.130

[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.547

[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr. 672

Nguồn Tuyên Giáo: http://www.tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/can-cot-de-phong-va-chong-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa-trong-noi-bo-116923