Cải thiện ngân sách cần tiết kiệm chi, không phải tăng cường thu...

Đây là nhận định được PGS-TS Nguyễn Đức Thành, Viện nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) đưa ra tại Hội thảo khoa học khả năng áp dụng và tác động của thuế tài sản ở Việt Nam diễn ra sáng 12.12.

Hội thảo về thuế tài sản - Ảnh: LT

Trình bày ở hội thảo, iTS Nguyễn Việt Cường đã đưa ra tham luận dự báo ảnh hưởng của Luật Thuế tài sản lên phúc lợi hộ gia đình và đưa ra các kịch bản nghiên cứu thuế tài sản với các ngưỡng chịu thuế 700 triệu đồng, 1 tỉ đồng, 2 tỉ đồng; với thuế suất 0,3% và 0,4%.

Giảm thu nhập và chi tiêu hộ gia đình

Theo ông Cường, đối với ngưỡng 700 triệu đồng, nếu thuế suất 0,3% thì mức thuế mỗi hộ phải nộp là 978 nghìn đồng (bằng 0,66% tổng thu nhập), mức chi tiêu giảm đi là 638 nghìn đồng (bằng 0,27% tổng chi tiêu). Nếu thuế suất là 0,4% thì mức thuế mỗi hộ phải nộp là 1,3 triệu đồng (bằng 0,89% tổng thu nhập), mức chi tiêu giảm đi là 851 nghìn đồng (bằng 0,36% tổng chi tiêu).

Đối với ngưỡng 1 tỉ đồng, nếu thuế suất là 0,3%, mức thuế mỗi hộ phải nộp là 897 nghìn đồng (bằng 0,61% tổng thu nhập), mức chi tiêu giảm đi là 600 nghìn đồng (bằng 0,25% tổng chi tiêu). Nếu thuế suất là 0,4%, mức thuế mỗi hộ phải nộp là 1,198 triệu đồng (bằng 0,82% tổng thu nhập), mức chi tiêu giảm đi là 800 nghìn đồng (bằng 0,34% tổng chi tiêu)

Đối với ngưỡng 2 tỉ đồng, nếu thuế suất là 0,3%, mức thuế mỗi hộ phải nộp là 763 nghìn đồng (bằng 0,53% tổng thu nhập), mức chi tiêu giảm đi là 525 nghìn đồng (bằng 0,22% tổng chi tiêu). Nếu thuế suất là 0,4%, mức thuế mỗi hộ phải nộp là 1,019 triệu đồng (bằng 0,72% tổng thu nhập), mức chi tiêu giảm đi là 700 nghìn đồng (bằng 0,29% tổng chi tiêu).

Như vậy có thể thấy “phương án thuế suất 0,3% và ngưỡng chịu thuế 2 tỉ đồng đối với nhà ở là có tác động nhỏ nhất với hộ gia đình. Phương án thuế suất 0,4% và ngưỡng chịu thuế 1 tỉ đồng đối với nhà ở có tác động nhỏ hơn đến các hộ gia đình nhưng vẫn duy trì được doanh thu thuế cao”, TS Cường nhận định.

PGS-TS Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng VEPR, cho rằng nếu thuế tài sản được ban hành như dự thảo hiện nay thì sẽ giảm thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình.

“Tuy nhiên, nó không ảnh hưởng tới đói nghèo và chủ yếu làm giảm thu nhập của người giàu. Do đó, chỉ số bất bình đẳng được cải thiện, nhưng chủ yếu do người giàu bị nghèo đi chứ không phải do người nghèo được cải thiện. Vì vậy đây không phải là sắc thuế bền vững, nếu chi tiêu công không thúc đẩy phúc lợi và năng suất toàn xã hội”, TS Thành nói.

Thuế bất động sản là hạn chế, chỉ thu nhiều cho địa phương?

TS Vũ Sĩ Cường (Học viện Tài chính) cho rằng “thuế tài sản” là một tên gọi mập mờ. Rất ít quốc gia đánh thuế trên động sản, chỉ đánh trên bất động sản. Cũng ít quốc gia đánh thuế trên tài sản ròng, chỉ có nước là Na Uy, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha.

“Tại một số nước trên thế giới, loại thuế này có tác dụng để can thiệp tình trạng bất bình đẳng nhưng không hiệu quả, vì người giàu có thể lách thuế bằng cách chuyển tài sản. Nhiều quan điểm khẳng định thuế tài sản là công cụ tốt để điều chỉnh thu nhập nhưng trên thực tế lại không phải. Hầu hết các nước quy thuế tài sản về các địa phương”, ông Cường cho hay.

Trong khi đó, theo thống kê từ Bộ Tài chính, có 174/193 nước trên thế giới thực hiện thu thuế tài sản với nhiều tên gọi khác nhau.

Ông Cường cho hay, dù các nước có nhiều cách đánh thuế bất động sản khác nhau, nhưng nhìn chung đóng góp cho ngân sách của các thuế bất động sản vào ngân sách của các nước là tương đối hạn chế. Tuy nhiên, thuế bất động sản lại là nguồn thu ngân sách chủ yếu của chính quyền địa phương nhiều quốc gia.

Việt Nam chưa có Luật thuế tài sản. Đóng góp của thuế sử dụng đất phi nông nghiệp vào ngân sách còn rất khiêm tốn cả phương diện quốc gia và địa phương. Ngoài chức năng là nguồn thu ngân sách địa phương, thuế bất động sản còn có thể tác động tới hành vi kinh tế của các đối tượng khác nhau: phân bổ lại dân cư, giảm đầu cơ trên thị trường bất động sản.

Tại Việt Nam, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp chỉ đóng góp 0.3 – 0,06% GDP mỗi năm, thua xa các nước. Vai trò với loại thuế này đối với ngân sách địa phương cũng rất khiếm tốn, chỉ từ 5 – 7% ngân sách địa phương, nhiều nơi thậm chí chỉ 2%.

Tiết kiệm chi thay vì tăng cường thu

Ông Nguyễn Đức Thành cho biết có hai dòng triết lý về việc đánh thuế tài sản: Chủ nghĩa can thiệp với chủ trương đánh thuế tài sản, và chủ nghĩa tự do cá nhân với chủ trương bãi bỏ thuế tài sản.

“Thuế tài sản, đặc biệt là thuế bất động sản, tuy không phải nguồn quan trọng đối với ngân sách quốc gia, nhưng là nguồn thu quan trọng ở địa phương tại hầu hết các nước. Nguồn thu này giúp cải thiện chi tiêu công tại địa phương. Do đó, có thể thấy hầu hết các nước đánh theo triết lý thuế địa phương”, ông Thành nói.

Cũng theo ông Thành, không có thuế tài sản chung chung, mà cần cụ thể hóa thành một loại thuế nào đó, có bản chất liên quan đến tài sản. Ở Việt Nam đã có một số loại thuế như vậy.

Bên cạnh đó, chuyên gia này cho rằng việc thiết kế các luật thuế liên quan đến tài sản cần phải được xác định mục đích rõ ràng.

Theo kinh nghiệm quốc tế, thuế bất động sản là loại thuế địa phương và chính quyền địa phương có quyền hạn nhất định trong việc đặt ra thuế suất. Việc áp dụng luật thuế đại trà như trong dự thảo là đi ngược lại với thông lệ quốc tế, khó thực hiện.

Thuế bất động sản không nhằm phân phối lại thu nhập mà là phân định lại khu dân cư. Nếu ngân sách địa phương không minh bạch và nguồn thu từ thuế bất động sản không được dùng để cải thiện cơ sở hạ tầng và an ninh địa phương thì sẽ gây bất bình trong công luận.

Ông Thành cũng cho rằng cần nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của ngân sách ở mọi cấp là điều cần thiết.

“Đặc biệt muốn cải thiện thu (được sự đồng thuận của người dân), phải nâng tính giải trình trong các khoản chi ngân sách. Việc cải thiện ngân sách cần bắt nguồn từ tiết kiệm chi, chứ không phải việc tăng cường thu”, ông Thành nói.

Lam Thanh

Nguồn Một Thế Giới: https://motthegioi.vn/kinh-te-c-67/tai-chinh-dau-tu-c-98/cai-thien-ngan-sach-can-tiet-kiem-chi-khong-phai-tang-cuong-thu-103042.html