Bộ Tổng Tham mưu với quá trình xây dựng, chiến đấu và chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam

Đại tướng NGÔ XUÂN LỊCHỦy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy T.Ư, Bộ trưởng Quốc phòngNgày 2-9-1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ công nông đầu tiên ở Đông - Nam Á được thành lập. Cùng với xây dựng, từng bước hoàn thiện bộ máy nhà nước, việc tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang (LLVT) và cơ quan tham mưu chiến lược của quân đội được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng khẩn trương tiến hành.

Đại tướng NGÔ XUÂN LỊCH

Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy T.Ư, Bộ trưởng Quốc phòng

Ngày 2-9-1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ công nông đầu tiên ở Đông - Nam Á được thành lập. Cùng với xây dựng, từng bước hoàn thiện bộ máy nhà nước, việc tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang (LLVT) và cơ quan tham mưu chiến lược của quân đội được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng khẩn trương tiến hành.

Ngày 7-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ thành lập Bộ Tổng Tham mưu (BTTM): “Chính phủ lâm thời đã quyết định tổ chức Bộ Quốc phòng, nay Đoàn thể (Đảng) lập BTTM để chỉ huy, điều hành LLVT trong cả nước. BTTM là cơ quan quân sự cơ mật của Đoàn thể, là cơ quan quan trọng của quân đội, có nhiệm vụ: tổ chức, huấn luyện quân đội cho giỏi; tổ chức nắm địch, nắm ta rõ ràng; bày mưu kế khôn khéo; tổ chức chỉ huy thông suốt, bí mật, nhanh chóng, kịp thời, chính xác để đánh thắng mọi kẻ thù, bảo vệ cách mạng”(1).

Buổi đầu thành lập, trong điều kiện hết sức khó khăn, nhưng BTTM đã nhanh chóng kiện toàn tổ chức, kết hợp làm việc với học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ tham mưu chiến lược theo chức năng, nhiệm vụ. Trong bối cảnh đất nước phải đối phó với nhiều kẻ thù, BTTM đã tham mưu cho Bộ Quốc phòng (BQP), Trung ương Đảng đánh giá, phân hóa chính xác từng đối tượng địch; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao, góp phần đưa cách mạng qua khỏi tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Đồng thời, tập trung tham mưu, chỉ đạo xây dựng, phát triển chiến tranh du kích; đổi tên, hợp nhất các tổ chức vũ trang, thống nhất tổ chức biên chế đơn vị bộ đội chủ lực, xác định nguyên tắc tổ chức lực lượng, cách đánh, hình thành các đoàn quân Nam tiến, chi viện cho chiến trường miền nam; chỉ đạo phân chia lại chiến trường(2), huấn luyện quân sự, đào tạo cán bộ, sản xuất vũ khí, sẵn sàng đối phó với các tình huống.

Trước âm mưu và hành động phá vỡ Hiệp định Sơ bộ (1946) của thực dân Pháp, BTTM chủ động tham mưu cho Bộ Tổng Chỉ huy, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, chỉ đạo làm thất bại mọi ý đồ chống phá của kẻ địch; chỉ huy, chỉ đạo các LLVT khẩn trương chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến. Trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, BTTM đã nắm chắc tình hình mọi mặt để tập trung chỉ đạo quân, dân Thủ đô xây dựng, phát triển các chi đội Vệ quốc đoàn thành các trung đoàn bộ binh chủ lực, thành lập các trung đội pháo binh… vừa cơ động bảo toàn lực lượng, vừa chiến đấu giam chân địch. Đồng thời, tổ chức di chuyển các cơ quan Trung ương Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Bộ Tổng Chỉ huy lên Căn cứ địa Việt Bắc, làm thất bại âm mưu đánh úp cơ quan đầu não, tiêu diệt LLVT ta ngay từ đầu của quân Pháp.

Cùng với đó, BTTM chỉ đạo chiến trường Nam Bộ, Nam Trung Bộ đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh tiêu hao, tiêu diệt, ngăn chặn địch phát triển ra miền trung và miền bắc. Nghiên cứu, mở rộng hệ thống cơ quan tham mưu, phát triển nguyên tắc chỉ đạo tác chiến chiến lược, chiến dịch; mở các trường quân chính đào tạo cán bộ, tăng cường công tác huấn luyện; thành lập đại đoàn chủ lực cơ động đầu tiên của Bộ, các đơn vị chủ lực của Chiến khu và trung đoàn của tỉnh, các “đơn vị đặc biệt”. Đồng thời, củng cố cơ quan chỉ huy và LLVT địa phương, xây dựng quân đội quốc gia; phát triển dân quân, tự vệ và du kích; đẩy mạnh hoạt động tác chiến rộng khắp, đánh bại chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của địch trong Chiến dịch Việt Bắc - Thu Đông 1947.

Giai đoạn từ năm 1948 đến giữa năm 1950, BTTM vừa tham mưu, vừa chỉ đạo xây dựng LLVT ba thứ quân, đẩy mạnh chiến tranh du kích, chủ động mở một số chiến dịch quy mô nhỏ và vừa. Tiêu biểu là Chiến dịch Biên giới (năm 1950) giải phóng tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc, khai thông biên giới với Trung Quốc, Liên Xô… tạo điều kiện cho huy động các nguồn viện trợ phục vụ kháng chiến. Trước ý định phản công giành lại thế chủ động trên chiến trường Bắc Bộ của địch, BTTM đã chỉ đạo mở các chiến dịch: Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám… và tiếp tục đẩy mạnh xây dựng các đơn vị chủ lực, tổ chức một số chiến dịch lớn, phát triển thế tiến công chiến lược từ Thu Đông 1951 đến Xuân Hè 1953. Đặc biệt, trong Chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, BTTM đã chỉ đạo LLVT chủ động phá vỡ Kế hoạch Na-va, xây dựng và chỉ đạo tác chiến, chuyển hướng chiến lược từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” trong chỉ đạo, chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ giành thắng lợi “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược giành thắng lợi, Đảng ta chủ trương tiến hành đồng thời cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc. Thực hiện mục tiêu đó, giai đoạn 1954 - 1960, BTTM đã quán triệt sâu sắc đường lối cách mạng, đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện của Đảng để tham mưu cho Quân ủy T.Ư, BQP, Đảng, Nhà nước đấu tranh thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, chuyển hướng chiến lược cách mạng, xây dựng và củng cố quốc phòng, bảo vệ miền bắc, chuẩn bị thế trận chiến lược, từng bước chi viện cho chiến trường miền nam. Giai đoạn 1961 - 1965, BTTM đã tham mưu, chỉ đạo xây dựng quân đội từng bước tiến lên chính quy, đẩy mạnh chiến tranh nhân dân, chỉ đạo LLVT đánh bại hoạt động phá hoại bằng không quân, hải quân của địch ra miền bắc, đánh thắng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền nam; giúp bạn Lào đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” lần thứ nhất, khẳng định sự trưởng thành, lớn mạnh khá toàn diện, vượt bậc của BTTM.

Tiếp đó, trong giai đoạn 1965 - 1968, BTTM đã nhận định, đánh giá đúng tình hình, dự kiến đúng xu hướng phát triển của chiến tranh để chủ động đề xuất các giải pháp sáng tạo, táo bạo, bất ngờ về chiến lược, chiến dịch; phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của LLVT ba thứ quân, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền nam, chiến tranh phá hoại lần thứ nhất ở miền bắc; phối hợp với bạn đánh bại một bước chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” lần thứ hai ở Lào, tạo bước ngoặt quyết định trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Giai đoạn 1969 - 1973, BTTM chỉ đạo các LLVT tổ chức nhiều chiến dịch quy mô lớn, đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của địch ở miền nam và chiến tranh phá hoại lần thứ hai ở miền bắc; phối hợp với bạn đánh bại hoàn toàn “Chiến tranh đặc biệt” lần thứ hai ở Lào, “Khơme hóa chiến tranh” ở Cam-pu-chia. Đặc biệt, giai đoạn 1973 - 1975, BTTM đã vận dụng sáng tạo nghệ thuật “tạo lực, lập thế, tranh thời, dùng mưu”, đánh giá đúng tình hình, nắm chắc thời cơ, tham mưu cho Bộ Chính trị, Quân ủy T.Ư, Bộ Tổng Tư lệnh và trực tiếp chỉ đạo động viên sức mạnh cả nước, điều chỉnh kế hoạch, rút ngắn thời gian tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền nam, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Như vậy, quá trình hình thành, phát triển của BTTM luôn gắn với quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến. Với tài mưu lược, sáng tạo về nghệ thuật quân sự, BTTM đã tạo ra bước ngoặt của chiến tranh để giành thắng lợi quyết định. Đây là “mặt trận” đấu mưu, đấu trí hết sức căng thẳng giữa BTTM Quân đội ta với cơ quan tham mưu chiến lược quân Pháp, quân Mỹ và quân đội Sài Gòn. Thành tích nổi bật của BTTM là đã tham mưu cho Bộ Tổng Chỉ huy, Trung ương Đảng và trực tiếp chỉ huy, chỉ đạo xây dựng, phát triển LLVT ba thứ quân; phát triển nghệ thuật điều hành chiến tranh, chỉ đạo tác chiến chiến lược, chiến dịch; phát triển nghệ thuật quân sự. Ta càng đánh càng mạnh, địch càng đánh càng thua. Đó là kết quả của tư duy và nghệ thuật quân sự Việt Nam, có sự kế thừa giữa truyền thống và hiện đại, thể hiện bản lĩnh, trí tuệ trong tổ chức, chỉ đạo, điều hành các hoạt động quân sự của BTTM, góp phần giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.

Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau năm 1975, BTTM tiếp tục nắm chắc tình hình thế giới, khu vực, đất nước, tham mưu cho Quân ủy T.Ư, BQP và trực tiếp chỉ đạo sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, chỉ huy LLVT chiến đấu bảo vệ biên giới và làm nhiệm vụ quốc tế; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; dự kiến, tham mưu và chỉ huy, chỉ đạo xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống chiến lược, nhất là trên biển, đảo, bảo vệ vững chắc chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.

Hiện nay, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo trên thế giới. Chiến tranh lớn ít có khả năng xảy ra nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố và các thách thức an ninh phi truyền thống tiếp tục diễn ra. Chủ nghĩa dân tộc thực dụng và tư duy cường quyền tiếp tục lan rộng trong quan hệ quốc tế; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt. Kinh tế thế giới đứng trước những khó khăn, thách thức mới, nhất là bị ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) tác động sâu sắc đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trên phạm vi toàn cầu. Tình hình Biển Đông tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn; các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội; đối tác, đối tượng chuyển hóa mau lẹ.

Để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ tham mưu chiến lược, chỉ huy, chỉ đạo toàn quân thực hiện các hoạt động, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong tình hình mới, BTTM cần quán triệt, thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:

Một là, tập trung nâng cao khả năng nghiên cứu, đánh giá, dự báo tình hình; điều chỉnh các phương án, quyết tâm tác chiến chiến lược, kịp thời tham mưu với Quân ủy T.Ư, BQP, Đảng, Nhà nước tiếp tục xây dựng các chiến lược bảo vệ Tổ quốc; xử lý thắng lợi các tình huống quốc phòng, an ninh, cả trên không, trên đất liền, trên biển, đảo và trên không gian mạng.

Hai là, chỉ đạo, điều hành các cơ quan, đơn vị trong toàn quân tiếp tục điều chỉnh tổ chức biên chế theo Nghị quyết số 606-NQ/QUTW, ngày 16-6-2018 của Quân ủy T.Ư về lãnh đạo triển khai Kết luận 16-KL/TW, ngày 7-7-2017 của Bộ Chính trị về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2021 và các kế hoạch, đề án, lộ trình đã xác định. Xây dựng lực lượng thường trực “tinh, gọn, mạnh, cơ động, linh hoạt”; lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp; lực lượng dự bị động viên “hùng hậu”, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu trong mọi tình huống.

Ba là, tiếp tục chỉ đạo đổi mới công tác đào tạo, huấn luyện, nâng cao chất lượng tổng hợp, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Phát huy vai trò nòng cốt của quân đội trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân; phòng, chống thiên tai, thảm họa, tìm kiếm cứu nạn và phòng, chống dịch bệnh.

Bốn là, phối hợp với các lực lượng liên quan tham mưu cho Quân ủy T.Ư, BQP lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, nhà trường trong toàn quân làm tốt công tác đối ngoại, hợp tác quân sự, quốc phòng, thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, bằng biện pháp hòa bình.

Năm là, chỉ đạo cơ quan chiến lược và các cơ quan, đơn vị toàn quân nghiên cứu, phát triển nghệ thuật quân sự, bảo đảm phù hợp với phương thức tác chiến mới của đối phương; đặc điểm địa bàn, không gian, môi trường tác chiến; tổ chức biên chế, vũ khí, trang bị, khả năng của ta và đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng. Chú trọng làm tốt công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Sáu là, cùng với các lực lượng khác, nhất là Tổng cục Công nghiệp quốc phòng tham mưu cho Quân ủy T.Ư, BQP phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng từng bước hòa nhập với công nghiệp quốc gia, đạt trình độ khoa học - công nghệ tiên tiến. Đẩy mạnh phát triển khoa học kỹ thuật quân sự theo hướng từng bước tiếp cận với cách mạng công nghiệp 4.0; kết hợp nghiên cứu, sản xuất, chế tạo, cải tiến với mua sắm vũ khí, trang bị phục vụ sự nghiệp hiện đại hóa quân đội.

Bảy là, phối hợp chặt chẽ với Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kỹ thuật bảo đảm tốt công tác hậu cần, kỹ thuật phục vụ các nhiệm vụ, ưu tiên nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, tìm kiếm cứu nạn, thiên tai, thảm họa, dịch bệnh... Tổ chức hình thành các cơ sở bảo đảm hậu cần, kỹ thuật nòng cốt theo vùng, miền gắn với quyết tâm, phương án tác chiến chiến lược; tích cực tham gia phát triển kinh tế của đất nước.

Tám là, tập trung xây dựng các tổ chức đảng thuộc Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, cơ quan BTTM và hệ thống cơ quan tham mưu toàn quân vững mạnh toàn diện, xứng đáng với truyền thống “Trung thành - mưu lược, tận tụy - sáng tạo, đoàn kết - hiệp đồng, quyết chiến - quyết thắng”.

(1) Quân đội nhân dân Việt Nam - Bộ Tổng Tham mưu, Lịch sử Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Nxb QĐND, H, 2015, tr. 10 - 11.

(2) Bắc Bộ có 3 chiến khu (1, 2, 3), Trung Bộ có 3 chiến khu (4, 5, 6), Nam Bộ có 3 chiến khu (7, 8, 9).

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/bo-tong-tham-muu-voi-qua-trinh-xay-dung-chien-dau-va-chien-thang-cua-quan-doi-nhan-dan-viet-nam-614332/