Bệnh không lây nhiễm: Tín hiệu S.O.S trong sức khỏe cộng đồng

Theo thống kê, trong khi tỷ lệ mắc bệnh truyền nhiễm giảm từ 55,5% (năm 1976) xuống còn 19,8% trong năm 2010, thì tỷ lệ mắc bệnh không lây nhiễm (BKLN) đang tăng nhanh từ 42,6% trong năm 1976 lên tới 71,6% trong năm 2010. Bệnh không lây nhiếm đang từng ngày gióng lên hồi chuông cảnh báo trong 'cuộc chiến' chăm sóc sức khỏe của trên toàn cầu.

Bệnh truyền nhiễm, bệnh lây nhiễm hay còn gọi là bệnh lây là một dạng bệnh phổ biến. Đặc điểm nhận biết các bệnh lây nhiễm có hai yếu tố “nhiễm” và “lây”: “Nhiễm” là khi cơ thể tiếp xúc với các yếu tố truyền nhiễm như các vi sinh vật như vi khuẩn, virus, nấm hay ký sinh trùng gây bệnh. Các yếu tố truyền nhiễm tấn công, xâm nhập, vượt qua hệ thống bảo vệ của cơ thể, từ đó gây nên các bất thường trong cơ thể. “Lây” là quá trình phát tán các yếu tố truyền nhiễm từ người bệnh sang cộng đồng xung quanh như qua máu, dịch tiết (hắt hơi, nước bọt), đường tiêu hóa, đường da và niêm mạc… Từ đó làm tăng nguy cơ mắc bệnh của cộng đồng và có thể trở thành ổ dịch, vùng dịch với số lượng người mắc nhiều. Một số bệnh lây nhiễm thường gặp như nhiễm trùng đường ruột, viêm phổi, cúm … hay gần đây nhất là dịch COVID-19 do chủng virus Sars - Cov2 gây ra.

Bệnh không lây nhiễm (BKLN) hay bệnh không truyền nhiễm là những căn bệnh không do vi khuẩn, vi rút hay các yếu tố “nhiễm” gây ra,cũng như không lây truyền giữa người với người, Bệnh thường diễn tiến chậm, thời gian ủ bệnh kéo dài và ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người bệnh trong một thời gian dài, nên thường được gọi là các bệnh mạn tính.

Phần lớn các bệnh không lây nhiễm thường liên quan đến các vấn đề nội tiết như đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh mỡ trong máu…. Với trường hợp ung thư chưa có bằng chứng để chứng minh về việc một chủng vi khuẩn, virus nào gây bệnh ung thư; cũng như chưa có bằng chứng về việc lây truyền ung thư từ người này sang người khác.

Với sự phát triển của khoa học công nghệ, các thành tựu nghiên cứu về y học cũng như các hiểu biết về con đường lây truyền của các tác nhân lây nhiễm, đã giúp con người dần đẩy lùi các bệnh lây nhiễm. Cấu trúc dân số, toàn cầu hóa, đô thị hóa và di dân, thay đổi môi trường, biến đổi khí hậu và thói quen sống, đã dần đưa BKLN trở thành mối nguy hàng đầu ở nước ta cũng như toàn thế giới.

Bệnh không lây nhiễm - mối nguy hàng đầu

Theo ước tính, năm 2016, Việt Nam có hơn 548 nghìn người chết, trong đó chết do BKLN chiếm 77% số người (44% là trước 70 tuổi). Tức là cứ có 10 trường hợp tử vong tại Việt Nam hằng năm thì có hơn 7 trường hợp tử vong liên quan đến các bệnh không lây nhiễm, gấp hai lần tổng các trường hợp tử vong do các bệnh truyển nhiễm, tai nạn giao thông, thiên tai… gây ra. Trong số này các bệnh tim mạch chiếm 33%, ung thư chiếm 18%, Phổi tác nghẽn mãn tính (COPD) chiếm 7% và đái tháo đường (ĐTĐ) chiếm 3%. Ước tính năm 2012, gánh nặng bệnh tật (DALYs) của BKLN chiếm 66,2% tổng gánh nặng bệnh tật do tất cả các nguyên nhân tại Việt nam.

Tại Việt Nam, trong khoảng 10 năm trở lại đây, số người mắc mới ung thư được phát hiện tăng 50%. Mỗi ngày có 350 trường hợp mắc mới ung thu được phát hiện và có 190 người tử vong do ung thư. Với tốc độ già hóa dân số, tiến trình đô thị hóa ngày càng nhanh, môi trường sống bị ô nhiễm, các yếu tố nguy cơ gây BKLN vẫn chưa được kiểm soát thì số người mắc và tử vong do BKLN được dự báo sẽ tiếp tục gia tăng.

Bệnh tim mạch

Trong năm 2012, gánh nặng bệnh tật do các bệnh tim mạch chiếm tỷ lệ lớn nhất (13,4%) trong tổng gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam. Bệnh tim mạch cũng chiếm tỷ lệ tử vong lớn nhất (33%) trong tổng số tử vong. Đột quỵ, nhồi máu cơ tim và bệnh tim do tăng huyết áp là 3 trong số 20 nguyên nhân gây tử vong hàng đầu.

Tăng huyết áp là một yếu tố nguy cơ chính dẫn đến các biến cố tim mạch nặng nề như đột quỵ, nhồi máu cơ tim, suy tim, suy thận và mù lòa. Ước tính có khoảng 15.990 người bị liệt, tàn phế, mất sức lao động do tai biến mạch máu não hàng năm.

Bệnh ung thư

Theo số liệu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), gánh nặng tử vong do ung thư chiếm hàng thứ hai sau các bệnh tim mạch, ở nam và nữ tương ứng là 13,5% và 11%. Các bệnh ung thư là nguyên nhân của 18% số trường hợp tử vong trong cả nước. Ung thư gan, ung thư phổi, khí phế quản, ung thư dạ dày và ung thư đại trực tràng nằm trong số 20 nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở Việt Nam.

Các loại ung thư phổ biến nhất ở nam giới là phổi, dạ dày, gan, đại trực tràng, thực quản, vòm, hạch, máu, tiền liệt tuyến và khoang miệng. Ở nữ giới các loại ung thư phổ biến nhất gồm: vú, đại trực tràng, phế quản phổi, cổ tử cung, dạ dày, giáp trạng, gan, buồng trứng, hạch và máu.

Bệnh đái tháo đường

Tình hình mắc bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) tại Việt Nam đang có chiều hướng gia tăng, và là một trong những nước có tốc độ gia tăng của bệnh đái tháo đường thuộc hàng cao trên thế giới. Tỷ lệ người dân mắc bệnh đái tháo đường tại nước ta có sự phân bố khác biệt giữa các vùng miền, nhưng thường tập trung nhiều tại các thành phố lớn, các khu công nghiệp phát triển. Do diễn tiến âm thầm và khó phát hiện nếu như không có sự thăm khám, theo dõi, nên tỷ lệ người mắc đái tháo đường không được phát hiện trong cộng đồng chiếm tỷ lệ cao. Khi phát hiện thường ở giai đoạn muộn có nhiều biến chứng. Gánh nặng tử vong và tàn phế do ĐTĐ cũng rất lớn. ĐTĐ nằm trong số 10 nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở nữ giới, nằm trong 10 nguyên nhân gây tàn phế hàng đầu ở cả nam và nữ giới năm 2008.

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính

Đây là bệnh lý hô hấp mạn tính, đặc trưng bởi sự tắc nghẽn luồng khí thở ra, sự cản trở không khí này thường diễn biến từ từ và liên quan đến phản ứng viêm bất thường của phổi với các phân tử nhỏ hoặc khí độc hại. Trong đó, khói thuốc lá, thuốc lào là nguyên nhân hàng đầu. Bệnh cướp đi khoảng 3 triệu sinh mạng năm 2016, đứng thứ 3 trong danh sách các nguyên nhân gây tử vong trên toàn cầu. Tại Việt Nam, phổi tắc nghẽn mạn tính là một hàng đầu trong những nguyên nhân gây tử vong, nhất là đối tượng nam giới, người nghiện thuốc lá.

Bệnh nhân không lây nhiễm đang ngày càng trẻ hóa

Các BKLN được coi là “bệnh dịch âm thầm” gây ra những tác động trầm trọng và rộng lớn về kinh tế, xã hội, thông qua việc làm, tăng chi phí y tế, giảm năng suất lao động và sản phẩm xã hội. Theo WHO, BKLN gây tổn thất 2-5% GDP của mỗi nước.

Tại Việt Nam, trong khoảng 10 năm trở lại đây, số người mắc mới ung thư được phát hiện tăng 50%. Mỗi ngày có 350 trường hợp mắc mới ung thu được phát hiện và có 190 người tử vong do ung thư. Với tốc độ già hóa dân số, tiến trình đô thị hóa ngày càng nhanh, môi trường sống bị ô nhiễm, các yếu tố nguy cơ gây BKLN vẫn chưa được kiểm soát thì số người mắc và tử vong do BKLN được dự báo sẽ tiếp tục gia tăng. BKLN đang là gánh nặng bệnh tật và tử vong chủ yếu trong giai đoạn tới.

Theo GS.TS.BS Trương Quang Bình, Phó giám đốc bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM: “Một thực trạng đáng báo động với vấn đề các bệnh không lây nhiễm tại nước ta, đó là hiện tượng trẻ hóa đối tượng nhiễm bệnh. Ví dụ như trường hợp tăng huyết áp thì trong những năm gần đây, đối tượng người trưởng thành dưới 70 tuổi mắc bệnh tăng huyết áp có thể lên đến 70-80%. Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của cá nhân người bệnh, gia đình, kinh tế, sức lao động xã hội…

GS.TS Trần Văn Thuấn, Giám đốc Bệnh viện K Trung ương cho rằng, theo một nghiên cứu ở Việt Nam, sau khoảng 10 năm, số người mắc ung thư vú tăng lên gần gấp đôi, từ 18 trường hợp tăng lên tới 30 trường hợp được phát hiện bệnh trong số 100.000 phụ nữ. Bệnh viện K trung ương đã điều trị cho không ít bệnh nhân bị ung thư vú khi mới ở độ tuổi 20, 21. Một số bệnh ung thư ở nước ta có tỷ lệ người mắc trẻ hơn so với thế giới, đó là ung thư phổi, dạ dày, trực tràng, gan… Trong thực tế có không ít những ca bệnh hiểm nghèo ở độ tuổi còn rất trẻ.

Với những tín hiệu cảnh báo về các bệnh không lây nhiễm cũng như những hậu quả nặng nề do nhóm bệnh này mang lại, việc chủ động phòng tránh ngay từ sớm ở ở góc độ mỗi cá nhân là vô cùng cần thiết.

HOÀNG NGỌC

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/benh-khong-lay-nhiem-tin-hieu-sos-trong-suc-khoe-cong-dong-n181041.html