Bầu cử ở Mỹ ảnh hưởng thế nào đến ngành năng lượng của Nga

Ngành năng lượng ngay từ đầu đã trở thành nạn nhân vô tình của chính trị trong quan hệ song phương Nga - Mỹ.

Mỹ và Nga, mặc dù là những nước tham gia lớn nhất vào thương mại năng lượng thế giới, nhưng hầu như không bán hoặc mua tài nguyên của nhau. Họ cũng hầu như không có dự án năng lượng chung nào trên lãnh thổ của mình hoặc trên lãnh thổ của các nước thứ ba. Từ quan điểm về an ninh năng lượng quốc gia, cả Mỹ và Nga đều không phải đối mặt với các mối đe dọa nghiêm trọng do cả hai quốc gia đều tự chủ năng lượng.

Trong nhiều thập kỷ, hai nước đã chìm đắm trong những xung đột công khai và tiềm ẩn liên quan đến lĩnh vực năng lượng: về khả năng tiếp cận công nghệ năng lượng, các lệnh trừng phạt trong lĩnh vực này đã tồn tại trong quan hệ song phương trong nửa thế kỷ, trên thị trường khí đốt châu Âu - từ thỏa thuận đường ống khí đốt của Liên Xô đến cuộc đấu tranh hiện nay Nord Stream 2 và sự cạnh tranh giữa khí đốt của Nga và LNG của Mỹ, ở khu vực Caspi - phát triển đường ống dẫn dầu và khí đốt bỏ qua Nga, ở Bắc Cực - tranh chấp quyền kiểm soát tài nguyên Bắc Cực.

Có những giai đoạn ấm lên khi các bên cố gắng tìm kiếm lợi ích chung và thậm chí bắt đầu các dự án chung, nhưng hầu hết đều không đạt được kỳ vọng. Dự án dầu khí Sakhalin-1 ở Viễn Đông mà ExxonMobil của Mỹ tham gia vào năm 1996, có lẽ là ví dụ hợp tác thành công nhất. Mặc dù ở đó, nhiều kế hoạch đã không được thực hiện, ví dụ như xuất khẩu khí đốt. Tuy nhiên, nỗ lực từ phía các công ty Mỹ tham gia vào các dự án khí đốt lớn của Nga (ví dụ như dự án Shtokman), kế hoạch kết hợp nỗ lực của Rosneft và ExxonMobil để nghiên cứu và phát triển thềm Bắc Cực và Biển Đen, cũng như tạo ra một trung tâm nghiên cứu và phát triển chung ở Bắc Cực, cũng như nỗ lực của Lukoil để có được chỗ đứng trên thị trường bán lẻ Mỹ đã không thành công. Mặc dù hợp tác yếu, cho đến năm 2014, mâu thuẫn trong lĩnh vực năng lượng vẫn chưa đến mức đối đầu công khai, mà chỉ dừng lại ở mức độ biểu tượng của cử chỉ, lời nói và nỗ lực nhằm gây ảnh hưởng ngoại giao ở các nước thứ ba.

Tất cả đã thay đổi trong vòng 5 - 7 năm qua, khi việc áp đặt các biện pháp trừng phạt dầu khí đối với Nga sau cuộc khủng hoảng Ukraine đồng thời với sự bùng nổ sản xuất dầu và khí đá phiến ở Mỹ. Sự bùng nổ này đã làm giảm mạnh sự phụ thuộc của Mỹ vào nhập khẩu hydrocacbon, và thậm chí biến nước này thành nhà xuất khẩu ròng đối với một số mặt hàng (ví dụ LNG), điều này ngay lập tức đẩy Nga và Mỹ vào cuộc chiến giành thị trường lớn nhất thế giới - châu Âu và châu Á.

Kể từ năm 2011, Mỹ đã vượt Nga về sản lượng khí đốt hàng năm. Sau đó ít lâu, xuất khẩu khí đốt của Nga bắt đầu chịu áp lực từ LNG của Mỹ, nhưng không phải áp lực thị trường (chi phí sản xuất và vận chuyển khí đốt của Nga thấp hơn đáng kể), mà là áp lực chính trị dưới ngọn cờ giảm phụ thuộc nhập khẩu vào Nga và chính sách phản đối các dự án đường ống dẫn khí của Nga sang châu Âu. Tình trạng tương tự xảy ra với sản phẩm dầu từ giai đoạn 2014-2016. Các nhà khai thác dầu mỏ Nga đã vô cùng ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng sự bất ổn kinh tế và việc không có khả năng trả nợ của các dự án đá phiến, được báo chí Nga mô tả nhiều lần, không ngăn cản người Mỹ tăng sản lượng dầu. Kể từ năm 2015, Mỹ đã vượt Nga về sản lượng khai thác dầu hàng năm.

Các cuộc tranh luận cho rằng mô hình tài chính của Mỹ trong sản xuất đá phiến là "không trung thực" và sẽ sớm sụp đổ đã nhanh chóng trở thành chủ đề được yêu thích ở Nga không chỉ trong giới chuyên gia mà còn cả trên “vỉa hè”. Vấn đề không chỉ nằm ở số lượng sản xuất ở Mỹ. Các nhà sản xuất Mỹ không quan tâm đặc biệt đến số phận của toàn ngành, nhanh chóng tăng sản lượng, dẫn đến cung vượt cầu và giá giảm. Sự sụp đổ của giá dầu và khí đốt trong giai đoạn 2015-2016 đã buộc Nga phải coi trọng hơn nhiều cuộc cạnh tranh với Mỹ và phần lớn đã xác định trước việc sửa đổi quan hệ với OPEC. Lần đầu tiên, Nga hợp tác với OPEC để ổn định thị trường, tức là nhằm giải quyết những hậu quả của việc tăng trưởng sản xuất thiếu kiểm soát ở Mỹ, mặc dù điều này chưa bao giờ được công khai rõ ràng.

Các sự kiện của năm 2019-2020, khi Tổng thống Mỹ D. Trump, với một vài dòng tweet, buộc liên minh OPEC+, bao gồm cả Nga, nhiều lần phải đưa ra quyết định có lợi và tự nguyện giảm xuất khẩu của mình, đã tạo thêm tâm lý khó chịu cho mối quan hệ. Các ứng cử viên Đảng Cộng hòa và Dân chủ có quan điểm hoàn toàn trái ngược về sự phát triển của ngành năng lượng, nhưng có vẻ như cả hai lựa chọn sẽ không mấy thoải mái đối với Nga, đơn giản vì những lý do khác nhau.

Donald Trump ban đầu hoạt động theo mô hình truyền thống của Đảng Cộng hòa, hứa hẹn giảm thuế và hỗ trợ các ngành công nghiệp nặng truyền thống (luyện kim, cơ khí, than và dầu khí). Tuy nhiên, lời hứa đã không được thực hiện: ngành khai thác than và luyện kim của Mỹ không chờ đợi một thời kỳ hoàng kim mới, việc làm trong những ngành này tiếp tục giảm. Tuy nhiên, việc rút khỏi Thỏa thuận Paris, quy định môi trường cực kỳ mềm mại, cũng như các lệnh trừng phạt đối với dầu của Iran và Venezuela và đường ống dẫn khí Nord Stream 2, kết hợp với tweet và áp lực qua điện thoại lên OPEC+, có thể được coi là thúc đẩy lợi ích của ngành dầu khí Mỹ.

Vì vậy, cho dù Tổng thống Donald Trump bị nghi ngờ có thiện cảm với Putin đến đâu, sự ủng hộ của ông đối với dầu mỏ Mỹ và việc tăng sản lượng lên gần 4 triệu bpd đã dẫn đến sự thâm hụt đáng kể về doanh thu từ dầu khí đối với LB Nga. Nếu Trump ở lại nhiệm kỳ thứ hai, ông hứa sẽ duy trì sự ủng hộ đối với năng lượng truyền thống (than, dầu, khí đốt - cạnh tranh với hàng xuất khẩu của Nga), và các quy định đặc biệt mềm đối với lĩnh vực dầu khí và nhanh chóng cấp giấy phép phát triển trên thềm và ở Bắc Cực, càng khó làm nước Nga dịch lại gần hơn.

Ứng cử viên đảng Dân chủ Joseph Biden có quan điểm ngược lại với triển vọng năng lượng của Mỹ và ủng hộ việc quay trở lại Thỏa thuận Paris và Thỏa thuận xanh với việc chuyển dần từ dầu mỏ sang năng lượng tái tạo. Các kế hoạch của ông để làm cho ngành năng lượng Mỹ không có carbon vào năm 2035 và đạt được sự trung lập hoàn toàn về khí hậu vào năm 2050 gợi nhớ đến chính sách khí hậu của châu Âu, vốn đã khá căng thẳng đối với nền kinh tế Nga.

Ứng cử viên Tổng thống Joe Biden và Thỏa thuận xanh

Ứng cử viên Tổng thống Joe Biden và Thỏa thuận xanh

Biden hứa hẹn sẽ đầu tư 2 nghìn tỷ USD trong vòng 4 năm tới để chuyển đổi năng lượng của Mỹ sang các nguồn sạch (bao gồm cơ sở hạ tầng sạc và "ô tô mới, sạch, do Mỹ sản xuất"). Ông cũng có kế hoạch thắt chặt thuế và quy định môi trường đối với ngành dầu khí, hủy bỏ trợ cấp liên bang, hạn chế cấp giấy phép mới, hủy bỏ việc xây dựng đường ống mới. Các khoản đầu tư vào công nghệ năng lượng carbon thấp, được Trump cắt giảm đáng kể, sẽ tăng lên, và việc làm mới sẽ được tạo ra trong năng lượng xanh.

Đối với các nhà khai thác dầu mỏ Nga, một lộ trình như vậy có thể có nghĩa là, một mặt, có thời gian nghỉ ngơi ngắn và rút khỏi thị trường một phần dầu và khí đá phiến của Mỹ. Nhưng mặt khác, về lâu dài, sự đảo ngược màu xanh lá cây của Mỹ - một trong những nước tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới và là người đi đầu trong ngành công nghiệp ô tô chắc chắn sẽ dẫn đến sự chậm lại trong tăng trưởng nhu cầu dầu toàn cầu, cũng như điều chỉnh chiến lược năng lượng của các quốc gia khác.

Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc cũng đã công bố khử cacbon vào năm 2050-2060. Và quyết định của các bên tham gia thị trường lớn nhất như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, sẽ trở thành một yếu tố rất quan trọng đối với người tiêu dùng, nhà đầu tư và nhà sản xuất thiết bị. Vì vậy, nếu Biden thắng, áp lực khí hậu đối với Nga sẽ tăng lên, và về vấn đề trừng phạt, người ta chắc chắn không nên mong đợi bất kỳ sự cứu trợ nào từ vị Tổng thống này.

Bên cạnh tác động trực tiếp của kết quả bầu cử tới quan hệ Nga-Mỹ, còn có một số tác động cấp hai rất lớn. Sự khác biệt trong cách tiếp cận của các ứng cử viên trong quan hệ với Iran, Ả Rập Xê-út, Trung Quốc và EU chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tình hình thị trường năng lượng. Nhưng nhìn chung, theo quan điểm của Tổ hợp nhiên liệu và năng lượng Nga, các cuộc bầu cử ở Mỹ là một sự lựa chọn giữa tồi tệ và tồi tệ hơn. Tất nhiên, câu hỏi được đặt ra - liệu mọi thứ có thực sự tồi tệ như vậy và liệu có thể tìm ra được một thỏa hiệp nào không? Từ quan điểm địa chính trị, cho đến nay vẫn chưa có cơ sở cho việc tái thiết lập. Và lĩnh vực năng lượng ở đây là con tin của căng thẳng địa chính trị.

Từ một góc độ khác, Nga có thể đa dạng hóa nền kinh tế, bỏ đi sự phụ thuộc vào ảnh hưởng thị trường từ bên ngoài, bao gồm bất kỳ quyết định nào của những nước tham gia lớn như Mỹ. Tuy nhiên chưa thấy một chính sách cụ thể nào cho việc này. Vì vậy, tất cả các bên tham gia nền kinh tế Nga phải chấp nhận các mối quan hệ trong lĩnh vực năng lượng ngày càng xấu đi như một thực tế mới và không thể tránh khỏi.

Viễn Đông

Nguồn PetroTimes: https://petrotimes.vn/bau-cu-o-my-anh-huong-the-nao-den-nganh-nang-luong-cua-nga-583192.html