'Bản lý lịch' vô cùng đặc sắc của nghề ăn ong ở xứ U Minh Hạ

Những người ăn ong được gọi là thợ, sẽ kết nối với nhau bởi một tổ chức gọi là phong ngạn. Những thành viên có quy ước với nhau, hiểu nôm na là đạo đức nghề nghiệp khi hành nghề ăn ong.

Về xứ U Minh Hạ không ít lần, rong ruổi tận lõi những cánh rừng tràm, điều kỳ thú dường như vô cùng tận. Ẩn bên trong sự mộc mạc, hoang sơ là sự sáng tạo bền bỉ và tài tình của bao nhiêu lớp người nối tiếp nhau để thích nghi và làm chủ vùng đất được miêu tả là “sấu lội, cọp um”. Và rồi cái nghề ăn ong, nghề rừng hầu như ai cũng biết, cũng thạo ở xứ U Minh Hạ, đã khiến tất cả phải "ngã ngửa" khi có cái “bản lý lịch” vô cùng đặc sắc. Một nghề rừng gắn với những lưu dân từ thời mở đất, là sản vật để tự hào và có tính đại diện cho cả một không gian văn hóa thì làm sao có thể đơn thuần.

Nghề ăn ong có từ bao giờ?

Hầu như tất cả các đầu sách khi viết về văn hóa Nam Bộ đều dành một phần trang trọng để nói về nghề ăn ong. Trong quyển “Cà Mau xưa” của tác giả Huỳnh Minh - Nghê Văn Lương có miêu tả khá cụ thể về cách thức và thời điểm để những người dân xứ rừng đi ăn ong. Những người ăn ong được gọi là thợ, sẽ kết nối với nhau bởi một tổ chức gọi là phong ngạn. Những thành viên có quy ước với nhau, hiểu nôm na là đạo đức nghề nghiệp khi hành nghề ăn ong. Ở thời điểm hiện tại, chỉ mật ong là giữ gần như nguyên vẹn giá trị, nhưng thời trước, sáp ong cũng là một sản phẩm có giá trị lớn của nghề ăn ong.

Ăn ong tại khu vực rừng tràm U Minh Hạ, xã Khánh Bình Tây Bắc, huyện Trần Văn Thời. Ảnh: QUỐC RIN

Ăn ong tại khu vực rừng tràm U Minh Hạ, xã Khánh Bình Tây Bắc, huyện Trần Văn Thời. Ảnh: QUỐC RIN

Theo Nhà văn, Nhà biên khảo Sơn Nam, sáp ong được coi là mặt hàng có giá trị trong nhiều lĩnh vực, như làm nến thắp, làm các chất dẫn trong các sản phẩm thủ công mỹ nghệ và y học. Sáp ong quý đến nỗi khi muốn nói ai đó đưa hối lộ, đút lót thì kêu là “đút sáp”. Bởi vậy, không có gì bàn cãi khi nói về tầm quan trọng của nghề ăn ong đối với người dân xứ rừng tràm. Chỉ có điều, các đầu sách chỉ nêu ra một cột mốc rất chung chung, có ý nghĩa về định tính hơn là chính xác, nghề ăn ong ra đời gần như song hành với thời khẩn hoang, mở đất. Đó là sáng tạo tài tình của người dân khi ứng xử với một vùng đất đầy sản vật nhưng cũng còn quá hoang sơ, nguy hiểm chực chờ.

Nhà văn Đoàn Giỏi trong tác phẩm "Đất rừng phương Nam" có miêu tả chi tiết về cách gác kèo ong: “Lưng mang cái gùi tre đan đã trát chai, tay cầm chà gạc… Chọn được vùng rừng tốt, biết mùa xuân tràm sẽ kết hoa nhiều, mới định chỗ đặt kèo. Phải xem hướng gió, tính trước đường bay của ong mật. Đó là những chỗ “ấm”, cây day, không bị ngọn gió thốc thẳng vào và ít khi có những dấu chân người…”. Kèo là một nhánh tràm, gác chênh chếch xong thì phải “rửa”, tức là phát quang. Ong không ưa chỗ bóng rợp, vì mật thường chua và dễ bị ẩm tổ. Kèo phải cũ, tiệp màu với cây rừng, ong mới về đóng. Kèo mới, còn mùi dao búa, kim khí thì ong chúa rất kỵ.

Để rồi, bằng tất cả sự tự hào, Nhà văn Đoàn Giỏi khẳng định chắc chắn: “Trong kho tàng kinh nghiệm của những nhà nuôi ong trên thế giới ghi chép trong các sách vở mà tôi được nghe thầy giáo tôi kể, không thấy có nơi nào nói đến việc lấy mật bằng cách gác kèo như má nuôi tôi đã kể cho tôi nghe”. Cái nghề ăn ong, coi dễ nhưng không phải ai cũng làm được. Phải nắm giữ được những bí quyết nghề nghiệp, giữ được đạo đức của người ăn ong mới mong bền vững. Đó là không ăn ong trên kèo người khác, khi cắt mứt ong, phải chừa lại chừng 1/3 tổ để ong xây lại. Hàng năm, phải có lễ với thổ công, thần rừng để cam kết là không hủy hoại, tận diệt tài sản của rừng già…

Vừa rồi, tại Cà Mau, tình cờ có nghe việc nơi nọ tổ chức lễ cúng tổ nghề ăn ong, chúng tôi vô cùng thắc mắc. Làm gì có tổ nghề ăn ong, chỉ có các bậc tiền nhân, thổ công, hà bá, thần rừng… là những điều mà xưa nay người thợ ăn ong bày tỏ lòng thành kính để tưởng nhớ và khấn vái. Tìm khắp tài liệu và cả qua kinh nghiệm dân gian cũng chưa thấy nhắc đến chuyện tổ nghề ăn ong. Thế nên, cúng bái cũng phải đúng, không theo kiểu tràn lan. Và sau khi tìm hiểu rất nhiều kênh thông tin, rốt cuộc, chúng tôi cũng phải xin nợ lại một câu trả lời, nghề ăn ong có từ bao giờ. Chỉ có một điều chắc chắn rằng, nghề ăn ong đã gắn bó với dân xứ rừng tràm từ xa xưa, thuở khẩn hoang, mở đất.

Sản vật quý của rừng tràm

Về xã Khánh Bình Tây Bắc, huyện Trần Văn Thời, chúng tôi ghé thăm anh Phạm Duy Khanh, chủ homestay Mười Ngọt để tìm hiểu thêm về nghề ăn ong. Gia đình anh Khanh có diện tích rừng tràm khoảng 60 ha, trong đó có khoảng 10 ha là tràm nguyên sinh. Có mối liên hệ thân tình, nên anh Khanh nhiều lần thủ thỉ tâm tình: “Hồi mới về, cha con tui cực khổ lắm. Cái quần không bao giờ kịp ráo nước. Nhưng mình mê rừng, rồi từ từ, rừng cũng đền đáp cho mình thôi”. Chỉ riêng việc khai thác mật ong từ gác kèo và mật ong ruồi tự nhiên, mỗi năm anh Khanh thu về không dưới 1.000 lít.

Với giá bình quân, ong mật 400.000 đồng/lít, ong ruồi 800.000 đồng/lít, thu nhập không hề ít, nếu không nói là đáng ước mơ. Thế nhưng, với anh Khanh, tiền chưa phải là ưu tiên lớn nhất: “Mình làm nghề, quan trọng nhất là giữ được uy tín, chất lượng mật ong. Bây giờ, người ta giả mạo, nhái thương hiệu mật ong U Minh Hạ, thậm chí pha tạp vào mật ong, khiến người mua ngày càng nghi ngại”. Ăn từ rừng thì phải giữ gìn và biết ơn rừng. Anh Khanh tiết lộ: “Nghề ăn ong hay nghề nào cũng vậy thôi, mình phải biết dưỡng sức cho ong, biết trồng thêm rừng để nhiều hoa cho ong hút mật. Ăn ong phải tuyệt đối chú ý đến việc lửa đóm để tránh cháy rừng”.

Coi vậy mà nghề ăn ong lắm công phu, vất vả. Mật ong chất lượng nhất vào mùa khô, đặc biệt là mùa xuân, khi hoa tràm nở rộ. Anh Khanh dẫn chúng tôi đi trải nghiệm việc ăn ong trong những cái kèo tuốt trong lõi rừng tràm. Tỉ mẩn, nhẫn nại và hoàn toàn tự tin, đúng là phong thái của những người làm chủ rừng tràm. Theo anh Khanh, tốt nhất là không dùng dao cắt sáp ong, bởi có mùi kim loại. Trước người ăn ong vẫn dùng cật tre vót mỏng làm dao cắt. Ăn ong kiêng kỵ nhiều thứ, như chuyện quan hệ vợ chồng, tang chế… Người xưa cho rằng, nếu phạm điều kỵ, ong thường hung dữ và bung ra đánh người. Lấy ong phải chọn buổi trong ngày, khi nào trời dịu thì ong cũng bớt hung dữ, tập trung về tổ tiết mật nhiều. Không ăn ong khi trời vừa đổ mưa xong vì dễ bị ong tấn công…

Ngày trước, ngoài mật ong, sáp ong được đem về chế biến và đựng trong khạp da bò. Mật ong bảo quản đơn giản, nhưng cũng có một số điều lưu ý. Đó là không đựng mật trong chai thủy tinh, dễ bể chai. Nếu giữ trong ngăn mát tủ lạnh nên tranh thủ sử dụng. Theo nhiều nghiên cứu, mật ong nguyên chất có hạn sử dụng mãi mãi, nhưng phần lớn mật ong có lẫn tạp chất, tạp chất càng nhiều thì hạn sử dụng càng ngắn lại. Với trẻ em dưới 1 tuổi, tuyệt đối không sử dụng mật ong. Mật ong có giá trị dược liệu và bồi bổ tuyệt vời, cực kỳ hữu ích cho sức khỏe.

Giám đốc Bảo tàng tỉnh Cà Mau Dương Minh Vĩnh cho biết: “Nghề ăn ong là cả sự kết tinh nghệ thuật ứng xử của người xưa với thiên nhiên trù phú nhưng khắc nghiệt của rừng tràm. Nghề ăn ong vừa được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia của tỉnh Cà Mau, đó là sự thừa nhận vô cùng xứng đáng và rất tự hào”. Việc gìn giữ và truyền nghề trong cộng đồng cũng đã được khởi động, triển khai một cách bài bản hơn. Theo quan điểm của chúng tôi, người ăn ong không chỉ là thợ, mà đúng hơn là những nghệ nhân dân gian về một nghề rất đặc trưng của vùng rừng tràm U Minh. Họ đã nâng tầm nghề mưu sinh thành nghệ thuật bao hàm cả giá trị văn hóa và triết lý nhân sinh.

Thương hiệu mật ong rừng tràm U Minh Hạ cũng đã được công nhận là thương hiệu tập thể. Mật ong U Minh Hạ đã mang hương tràm quê hương vươn xa đến mọi nơi. Cái nghề từ thời khẩn hoang, mở cõi, vẫn trường tồn như cây tràm bén vào lòng đất mẹ, dâng mật ngọt, hương sắc cho đời.

baocamau.com.vn

Phạm Hải Nguyên

Nguồn Thời Đại: https://thoidai.com.vn/ban-ly-lich-vo-cung-dac-sac-cua-nghe-an-ong-o-xu-u-minh-ha-119095.html