Băn khoăn chỉ tiêu tăng trưởng, lạm phát

Trên lĩnh vực kinh tế, những việc làm được là cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và phát triển doanh nghiệp (DN). Chính phủ cũng đã ghi thêm dấu mốc mới rất quan trọng trong tiến trình hội nhập quốc tế; niềm tin và những động lực mới của cải cách đang được khơi dậy. Tuy nhiên, vẫn còn những băn khoăn về những mục tiêu, chỉ tiêu Chính phủ đặt ra.

Quá lạc quan mục tiêu tăng trưởng?
Qua các báo cáo, tôi thấy chúng ta dường như đã quá lạc quan về triển vọng tăng trưởng kinh tế trong những năm tới. Mặc dù giai đoạn năm 2016-2018, nền kinh tế tăng trưởng khả quan với tốc độ trung bình ước tính khoảng 6,57%/năm, nhưng việc đạt được tốc độ tăng trưởng trung bình 6,5-7%/năm trong cả giai đoạn 2016-2020, theo tôi vẫn là thách thức rất lớn.

Khi thay đổi mục tiêu lạm phát như vậy, Chính phủ dường như đang rút khỏi cam kết “vàng” được người dân, DN, nhà đầu tư trong và ngoài nước đồng lòng ủng hộ. Và với sự điều chỉnh này, Chính phủ sẽ khó bảo đảm thực hiện được Nghị quyết của Quốc hội về việc đưa lạm phát về mức dưới 3% vào cuối nhiệm kỳ này.

Nền kinh tế của chúng ta hiện nay có độ mở cao nên rất nhạy cảm với các tác động từ bên ngoài. Trong bối cảnh Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (FED) thắt chặt tiền tệ, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lại, chiến tranh thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc và giữa các nền kinh tế lớn có nguy cơ tiếp tục leo thang, liệu Việt Nam có thể duy trì được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trên 10%/năm cho 2 năm tới? Liệu các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và gián tiếp nước ngoài có tiếp tục chảy mạnh vào Việt Nam? Trong khi cả xuất khẩu và đầu tư FDI đang là động lực chính của tăng trưởng.

Nhiều dự báo về tăng trưởng kinh tế toàn cầu cũng như tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ trong giai đoạn 2019-2020 đang được điều chỉnh theo hướng giảm đi. Trong bối cảnh đó, tôi cho rằng các xu hướng về xuất khẩu và đầu tư trong thời gian tới sẽ khó khả quan và thuận lợi như trong 3 năm qua. Do vậy, việc xác định các mục tiêu khác như thu/chi ngân sách, nợ công… rất cần có sự thận trọng và cân nhắc kỹ, không nên dựa vào kế hoạch tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn 6,5%.

Ảnh minh họa.

Thiếu tự tin với kiềm chế lạm phát?

Trong khi lạc quan về tăng trưởng, Chính phủ lại có vẻ thiếu tự tin đối với mục tiêu kiềm chế lạm phát. Trong 3 năm qua, đặc biệt trong năm 2018, chúng ta vẫn luôn giữ được lạm phát ở mức dưới 4%, bất chấp những biến động mạnh về giá dầu, giá thực phẩm và tỷ giá diễn ra đồng thời. Đó là một trong những thành tựu quan trọng bậc nhất, thể hiện bản lĩnh và năng lực điều hành kinh tế của Chính phủ. Lạm phát thấp đã và đang tạo điều kiện cho việc ổn định giá cả, ổn định lãi suất, thúc đẩy tăng trưởng cao và bền vững hơn. Vậy tại sao chúng ta lại không tiếp tục kiên định mục tiêu kiềm chế lạm phát dưới 4%.

Với việc Chính phủ đặt mục tiêu lạm phát “khoảng 4%” thay cho “dưới 4%” trong năm 2019, không rõ tới đây Quốc hội sẽ đánh giá việc hoàn thành chỉ tiêu này như thế nào? Nếu lạm phát tăng 4,1-4,2%, có thể chấp nhận được. Nhưng nếu 4,3%, 4,4%, 4,5% có còn gọi là hoàn thành nhiệm vụ? Tôi cho rằng việc chuyển từ một mục tiêu cứng và rõ ràng (dưới 4%) sang một mục tiêu mềm và có phần mơ hồ hơn (khoảng 4%) là bước lùi trong hoạch định chính sách, và hậu quả sẽ khó lường.

Bởi lẽ, khi Chính phủ không bị ràng buộc bằng một mục tiêu kiềm chế lạm phát cứng, sự quyết liệt trong thực hiện sẽ giảm đi nhiều. Các bộ, ngành sẽ không còn phải cân nhắc khi đưa ra những đề xuất tăng giá, phá giá, điều chỉnh giá hay đưa ra các sắc thuế mới... Nếu Chính phủ bằng lòng với mức lạm phát trên 4%, người dân sẽ có quyền đặt câu hỏi: Liệu trong tương lai, mục tiêu lạm phát có được điều chỉnh thành “khoảng 5%” hay “khoảng 6%”? Và liệu các nhà đầu tư có còn tin rằng ổn định kinh tế vĩ mô vẫn luôn là mục tiêu xuyên suốt và lâu dài của Chính phủ? Lãi suất, tỷ giá liệu có “té nước theo mưa” cùng với sự điều chỉnh mục tiêu lạm phát theo đề xuất của Chính phủ?

Thách thức mục tiêu 1 triệu DN

Về mục tiêu có được 1 triệu DN hoạt động hiệu quả vào năm 2020, trong báo cáo của Chính phủ và Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, đều có chung nhận định: đây là một mục tiêu đầy thách thức. Tôi nhớ lại, mười mấy năm trước, khi còn tại nhiệm, cố Thủ tướng Phan Văn khải - vị Thủ tướng của Luật DN - đã đặt ra mục tiêu nước ta có được 500.000 DN vào năm 2010. Nhưng chúng ta đã trễ hẹn tới 6 năm để thực hiện mục tiêu này. Vậy lần này, câu hỏi được đặt ra là: liệu mục tiêu có 1 triệu DN vào năm 2020 của Chính phủ thêm một lần lỡ hẹn nữa?

Vào thời điểm này, sau nhiều nỗ lực để xây dựng quốc gia khởi nghiệp, cũng như nói rất nhiều về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhưng chúng ta mới có 600.000 DN đang hoạt động. Tức để đạt được mục tiêu 1 triệu DN sau 2 năm nữa, mỗi năm chúng ta phải có thêm ít nhất hơn 200.000 DN mới ra đời. Nhiệm vụ gần như bất khả thi. Bất khả thi vì tốc độ thành lập DN mới đang giảm dần và trên 5 triệu hộ kinh doanh lại “không muốn lớn”. Điểm nghẽn thể chế ở đây là chúng ta chưa có được chế độ kế toán và chính sách thuế phù hợp cho DN nhỏ và siêu nhỏ, để bảo đảm các DN này không chỉ không bất lợi so với các DN lớn, mà còn được đối xử công bằng với các hộ kinh doanh.

Để khai thông điểm nghẽn này, theo tôi Chính phủ nghiên cứu, trình Quốc hội Luật sửa đổi các Luật Kế toán và Luật Thuế để có thể áp dụng chế độ kế toán và thuế thật đơn giản, dễ áp dụng cho các DN nhỏ và siêu nhỏ như nhiều nước đã làm. Đây là giải pháp có ý nghĩa đột phá. Giải pháp này cộng hưởng với những nỗ lực cải cách quyết liệt, đồng bộ của Chính phủ, đặc biệt trong việc cắt bỏ giấy phép con và các thủ tục hành chính… Và với phương châm chính sách là “tiếp tục cởi trói cho DN”, chúng ta sẽ khởi động được một hành trình nâng cấp, chính thức hóa khu vực kinh tế tư nhân, chuyển đổi các hộ kinh doanh thành DN. Với hành trình này, mục tiêu có được 1, 2 hay 3 triệu DN tưởng như xa vời, sẽ là mục tiêu trong tầm tay.

Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI Việt Nam

Nguồn SGĐT: http://saigondautu.com.vn/chu-diem-su-kien/ban-khoan-chi-tieu-tang-truong-lam-phat-62621.html