Bài thuốc trị chứng vị khí hư

Chứng vị khí hư thường gọi là chứng vị khí bất túc, công năng thu nạp và ngấu nhừ thức ăn, đồ uống sút kém dẫn đến tình trạng vị mất đi sự hòa giáng,

phần nhiều là do ăn uống không điều độ, cơ thể mệt nhọc hư tổn. Hoặc do thổ tả thái quá, làm tổn hại vị khí mà gây bệnh.

Biểu hiện: môi trắng nhợt, mạch hữu quan nhuyễn nhược, thường gây ra các chứng nôn mửa, nấc, không ăn được, đau vị quản, dạ dày đau âm ỉ cả ngày. Khi ấn tay vào thì đỡ đau. Không muốn ăn uống, khi ăn vào thì lâu tiêu hoặc ăn vào thì nôn ra, có kiêm chứng hụt hơi, lười nói, tiếng nói nhỏ nhẹ, sắc mặt vàng bủng, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch hư nhược.

Dưới đây là một số bài thuốc thường dùng tùy thể bệnh:

Do vị khí hư sinh chứng vị quản thống, thời kỳ đầu thuộc thực chứng, phần nhiều do can khí phạm vị hoặc do đàm ẩm lưu trệ ở vị hay do ngoại tà xâm nhập. Nếu bệnh để lâu ngày không được điều trị, làm tổn thương chính khí, khi vị khí bị tổn hại, bệnh thuộc hư chứng. Đây là do vị khí hư yếu, kinh mạch không được nuôi dưỡng mà gây nên bệnh.

Triệu chứng: Vị quản đau âm ỉ, khi đói thì đau tăng, khi ăn vào thì giảm đau, ấn tay vào thì dễ chịu, lưỡi nhạt, mạch hư nhược.

Bài thuốc Hoàng kỳ kiến trung thang.

Điều trị: Bổ ích vị khí.

Bài thuốc: “Hoàng kỳ kiến trung thang”: hoàng kỳ 20g, quế chi 12g, sinh khương 12g, cam thảo 6g, bạch thược 16g, đại táo 16g, di đường 30g. Tùy chứng trạng của bệnh nhân mà dùng liều lượng và gia giảm cho thích hợp. Ngày uống 1 thang, sắc uống 3 lần trong ngày, trước khi ăn.

Do vị khí hư nhược gây cồn cào, do không làm được chức năng ngấu nhừ thức ăn, trọc âm không giáng xuống, đàm ẩm lưu trệ mà sinh ra bệnh chứng tào tạp (cồn cào). Sách Bút hoa y kính viết: “Tào tạp là cồn cào quấy nhiễu không yên, khi ăn vào thì tạm dễ chịu, thở gấp mà kém ăn. Đó là do trung tiêu hư yếu, có kiêm đàm ẩm vậy”.

Triệu chứng: Bệnh nhân thấy trong vị (dạ dày) cồn cào không yên, khó mô tả hình dung, có cảm giác như đói mà không phải đói, giống như đau mà không phải đau, miệng nhạt không có mùi vị, lợm giọng buồn nôn, có khi nôn mửa.

Phép trị: Kiện tỳ hòa vị.

Bài thuốc: “Dị công tán”: nhân sâm 8g, bạch truật 12g, trần bì 6g, bạch linh 8g, chích thảo 4g. Tùy chứng trạng của bệnh nhân mà gia giảm và dùng liều lượng cho thích hợp. Ngày uống 1 thang, sắc uống 3 lần trong ngày trước khi ăn.

Do vị khí bất túc gây nấc, khí mất sự hòa giáng nghịch lên trên mà sinh chứng ách nghịch (nấc).

Triệu chứng: Do tỳ vị đều hư, lại cảm nhiễm phong tà cho nên khi ăn cơm vào vị không chuyển hóa được, khí của thức ăn cũ và thức ăn mới chống lại nhau, không chuyển hóa được, làm cho vị khí nghịch lên, vị nghịch thì tỳ khí cũng nghịch, bụng trướng đầy, lại bị khí lạnh nhập vào mà sinh ra chứng ách nghịch.

Phép trị: Bổ vị hòa trung, trừ nấc.

Bài thuốc: “Lục quân tử thang gia giảm”: phục linh, sa nhân, thần khúc, bạch truật mỗi loại 12g; chích thảo 6, trần bì 6g, bán hạ chế 8g, nhân sâm 8g. Gia chỉ thực 6g, mộc hương 6g. Ngày uống 1 thang, sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn.

Do phát hãn hoặc thổ hạ quá mức làm tổn thương vị khí gây ợ hơi, vị khí hư yếu, thực trệ tích lại làm cho vị khí nghịch lên sinh chứng ái khí (ợ hơi). Sách Loại chứng trị tài viết: “Vị khí ẩn náu nghịch lên, sinh ra ợ hơi, buồn nôn, phải dùng vị mặn làm mềm chứng bỉ (tích tụ), dùng chất nặng để giáng nghịch.

Triệu chứng: Bệnh nhân ợ hơi liên tục nhưng không có mùi nồng của thức ăn, dưới tâm bỉ đầy, thích xoa bóp.

Phép trị: Bổ hư tỳ vị giáng khí nghịch.

Bài thuốc: “Toàn phúc đại giả thang”: đại giả thạch 40g; chích thảo, toàn phúc hoa, nhân sâm, bán hạ chế mỗi loại 12g; đại táo 12 quả, sinh khương 20g. Tùy chứng trạng của bệnh nhân có thể gia giảm cho thích hợp. Ngày uống 1 thang sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn, khi thuốc còn ấm.

Do tỳ vị hư yếu, khí thăng giáng thất thường mà sinh chứng ẩu thổ (nôn mửa). Sách Y học chính truyền viết: “Bệnh nhân mắc bệnh đã lâu, khí hư, vị khí bị suy nặng, ngửi thấy mùi thức ăn thì nôn ọe”.

Triệu chứng: Bệnh nhân nôn mửa ra nước trong hoặc ăn uống không cẩn thận cũng gây nôn mửa, ăn kém, đại tiện phân lỏng.

Phép trị: Kiện bổ tỳ vị.

Bài thuốc: “Lý trung thang gia giảm”: Nhân sân 12g, hương phụ 12g, bạch truật 12g, can khương 8g, cam thảo 8g. Gia mộc hương 6g, trúc nhự 6g. Ngày uống 1 thang, sắc uống 3 lần trong ngày trước khi ăn, uống khi thuốc còn ấm.

Do tỳ vị hư yếu, nguồn sinh hóa của huyết không đủ mà sinh chứng hư lao. Sách Chư bệnh nguyên hậu luận viết: “Tỳ vị cai quản cơ nhục toàn thân, vị là bể chứa thủy cốc, khi mắc chứng hư lao thì tỳ vị không hòa, khí của tỳ vị hư yếu mà ăn uống kém”.

Triệu chứng: Bệnh nhân gầy còm, ốm yếu, sắc mặt vàng bủng, ăn kém, người mỏi mệt, tiếng nói nhỏ, hụt hơi, lười nói.

Phép trị: Bổ tỳ ích vị.

Bài thuốc: “Tứ quân tử thang”: nhân sâm 8g, bạch truật 12g, phục linh 10g, cam thảo 4g. Tùy chứng trạng của bệnh nhân có thể gia thêm các vị khác cho thích hợp.

Cách dùng: Ngày uống 1 thang, sắc uống 3 lần trong ngày, trước khi ăn.

Do vị khí hư yếu gây nôn ọe khi mang thai, sau khi thụ thai, khí huyết dồn xuống để nuôi thai nhi càng làm cho vị khí yếu thêm mà mất đi sự hòa giáng, khí của xung mạch nghịch lên mà sinh ra chứng nôn ọe. Sách Chư bệnh nguyên hậu luận viết: “Chứng ớ trở (nôn ọe) này chỉ là do vị khí yếu, lại kiêm cả trệ nữa”.

Triệu chứng: Bệnh nhân thời kỳ đầu có thai thường buồn nôn, nôn mửa, ăn vào thì nôn ra ngay, ngửi thấy mùi thức ăn thì buồn nôn, ăn uống kém, người mệt mỏi, lưỡi nhạt, mạch hoãn hoạt.

Phép trị: Kiện tỳ vị, hòa trung, giáng nghịch chỉ nôn.

Bài thuốc: “Hương sa lục quân tử thang”: mộc hương 6g, trần bì 6g, sinh khương 4g, ô mai 2 quả; bán hạ chế, phục linh, sa nhân, nhân sâm mỗi loại 8g; bạch truật 12g, chích thảo 4g, đại táo 3 quả, gia: hoắc hương 8g, trúc nhự 4g, hoàng cầm 6g.

Cách dùng: ngày uống 1 thang, sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn.

TTND.BS. Nguyễn Xuân Hướng

Nguồn SK&ĐS: http://suckhoedoisong.vn/bai-thuoc-tri-chung-vi-khi-hu-n140047.html