Bài thơ 'Hoan hô chiến chiến sĩ Điện Biên' của Tố Hữu 'Đại cáo bình Tây' của thời đại Hồ Chí Minh

“Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng” – Tố Hữu

Phản ánh, nhận định, đánh giá về sự ác liệt, qui mô của cuộc chiến cũngn như ý nghĩa lớn lao đối với cách mạng Việt Nam và thế giới của chiến thắng Điên Biên Phủ trong tác phẩm văn học nghệ thuật cần có một độ lùi cần thiết về thời gian. Song, có một tác giả, mà lại là một nhà thơ đã chỉ mất có hai ngày vào thời điểm khi tin thắng lợi từ mặt trận vừa loan đến Bộ Tổng tham mưu của cuộc chiến, để hoàn thành tác phẩm.

Ngày 7 tháng 5 năm 1954, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của quân đội Pháp, với sự chi viện của đế quốc Mỹ, đã bị quân và dân ta tiêu diệt. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ chống pháp kéo dài 9 năm, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ ne vơ lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Tác giả ấy, nhà thơ ấy là Tố Hữu. Bài thơ mô tả sinh động cuộc sốngn chiến đấu gian khổ với không ít hy sinh mất mát của các lực lượng tham gia chiến dịch; đồng thời phản ánh kịp thời không khí hào hung và niểm vui vô bờ của nhân dân ta trong ngày hội mừng chiến thắng “lừng lẫy năm chây, chấn động địa cầu” ấy là bài thơ” Hoan hô chiến sĩ Điện Biên!”. Bài thơ hừng hực không khí chiến đấu và chiến thắng, tràn ngập lòng tự hào về dân tộc, đất nước và lãnh tụ ấy, xứng đáng là một bản “Đại cáo bình Tây” của thời đại mới – thời đại Hồ Chí Minh.

Bài thơ được tác giả chia làm 4 phần.

Phần I, như không để mọi người phải chờ đợi lâu, Tố Hữu báo tin chiến thắng, cái tin mà cả dân tộc ta, và cả thế giới đã nín thở chờ đợi:

“Tin nửa đêm
Hỏa tốc hỏa tốc
Ngựa bay lên dốc
Đuốc cháy sang rừng
Chuông reo tin mừng
Loa kêu từng cửa
Làng bản đỏ đèn đỏ lửa”

Với thủ pháp nhịp điệu mô phỏng mà Tố Hữu sử dụng trong những câu thơ mở đầu này, chúng ta như nghe thấy rõ mồn một tiếng vó ngựa dồn dập, hối hả, say sưa trên núi rừng Việt Bắc đưa tin chiến thắng “chấn động địa cầu”, thấy rõ mồn một cái không khí “tin vui thắng trận dồn chân ngựa” (thơ Hồ Chủ tịch) nói về tin thắng trận và niềm vui, tự hào về chiến thắng Điện Biên Phủ.

Trận Điện Biên Phủ ngày nay như những con sóng lớn, cuốn mạnh tư tưởng và tình cảm của Tố Hữu lên phía trước. Lòng tự hào dân tộc và vinh quang của chiến thắng đã giúp Tố Hữu tạo được một hình ảnh chói lọi:

“Đêm lịch sử Điện Biên sáng rực
Trên đất nước, như Huân chươngn trên ngực
Dân tộc ta, dân tộc anh hùng”.

Trận đánh Điện Biên Phủ của quân và dân ta là một trận đánh lịch sử, mang ý nghĩa thời đại sâu sắc. Khi các chiến sĩ ta quần nhau với địch trong những chiến hào ở Điện Biên Phủ, có hang nghìn triệu người lương thiện khắp thế giới hồi hộp chờ tin các anh. Với tầm nhìn của một nhà cách mạng chiến lược, với biệt tài dựng lên những khung cảnh hùng vĩ, rộng lớn của chiến trường Điện Biên, Tỗ Hữu đã khẳng định niềm vui và tự hào này không chỉ của nhân dân Việt Nam mà còn của nhân dân toàn thế giới:

“Điện Biên vời vợi nghìn trùng
Mà lòng bốn biển nhịp cùng long ta
Đêm nay bè bạn gần xa
Tin về chắc cũng chan hòa vui chung”.

Phần II

Nhà thơ cung cấp cho ta nhiều con số và những tư liệu lịch sử: cuộc kháng chiến chống Pháp đã kéo dài “ba ngàn ngày”, chiến dịch Điện Biên toàn thắng sau “56 ngày đêm…”. Song, điểm đọng lại ấn tượng, gây nhiều cảm xúc kính phục trong đoạn này là khi tác giả mô tả cuộc chiến đấu ác liệt, sức chịu đựng gian khổ của bộ đội, dân công. Qua đó nhà thơ thay mặt cho cả dân tộc khen ngợi các chiến sĩ Điện Biên.

“Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hung
Đầu nung lửa thép
Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt.
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn
Những đồng chí thân chon làm giá sung
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Áo ào vũ bão
Những đồng chí chèn lưng kéo pháo
Nát thân, nhắm mắt, còn ôm
Những bàn tay xẻ núi, lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện.
Và những chị, những anh ngày đêm ra tiền tuyến
Mấy tầng mây gió lớn mưa to
Dốc Pha Đin, chị gánh, anh thồ
Đèo Lũng Lô, anh hò, chị hát
Dù bom đạn xương tan, thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh...”

Nhà thơ khẳng định sự chiến đấu anh dũng tuyệt với, sự hy sinh máu xương của những người tham gia chiến dịch là không uổng phí, mà đã góp phần mang lại hòa bình cho đất nước, sự yên bình, cuộc sống cho nhân dân.

“Hỡi các chị, các anh
Trên chiến trường ngã xuống
Máu của anh chị, của chúng ta không uổng
Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng...?

Phần III, nhà thơ khẳng định quân giặc ở tập đoàn cứ điểm Điển Biên Phủ cũng như mọi kẻ thù xâm lược Việt Nam đều phải chung một kết cục: “Lũ chúng nó phải hàng, phải chết”. Bọn “giặc điên” dù có “chui xuống đất”, hay “chạy đằng trời” cũng không thể thoát khỏi sự trừng trị của quân và dân ta, bởi:

“Trời không của chúng bay
Đạn ta rào lưới sắt!
Đất không của chúng bay
Đai thép ta thắt chặt!
Của ta trời đất đêm ngày
Núi kia, đồi nọ, sông này của ta”
Đối với bọn xâm lược chỉ có một con đường:
“Chúng bay chỉ một đường ra
Một là tử địa, hai là tù binh.

Và, trên mặt trận Điện Biên Phủ - nơi mà các tướng soái thiện chiến, nhà nghề của Pháp và Mỹ từng huyênh hoang tuyên bố là pháo đài bất khả xâm phạm, đã là nơi chôn vùi quân xâm lược. Những câu thơ ào ạt, như vọng với những tiếng “Hịch tướng sĩ” hay “ Bình Ngô đại cáo” của lịch sử dân tộc ta:

“Hạ súng xuống rùng mình run rẩy
Nghe pháo ta lừng lẫy thét gầm
Nghe trưa nay tháng năm, mùng bảy
Trên đầu bay thác lửa hờn căm
Trông: bốn mặt lũy hầm sụp đổ
Tướng quân bay lố nhố cờ hàng
Trông: chúng ta cờ đỏ sao vàng
Rực trời đất Điên Biên toàn thắng!”
“Tiếng reo núi vọng sông rền
Đêm nay chắc cũng về bên Bác Hồ
Bác đang cúi xuống bản đồ
Chắc là nghe tiếng quân hò reo...
Từ khi vượt núi qua đèo
Ta đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngày
Tin về mừng thọ đêm nay
Chắc vui lòng Bác giờ này đợi trông!”

Phần IV, nhà thơ cho chúng ta biết, cùng với mặt trận Điện Biên Phủ, chúng ta còn mở một mặt trận nữa, là mặt trận ngoại giao do đồng chí Phạm Văn Đồng làm tổng tư lệnh dưới sự chỉ đạo của Bác Hồ. Trên hai mặt trận ấy, chiến thắng ở Điện Biên Phủ có ý nghĩa quyết định. Và khi chiến thắng đến, Tố Hữu nghĩ ngay đến đồng chí Phạm Văn Đồng đang đấu tranh trên mặt trận ngoại giao ở nước ngoài:

“Đồng chí Phạm Văn Đồng
ở bên đó, chắc đêm nay không ngủ”

Tuy cách xa ngàn trùng, phương tiện liên lạc từ Việt Nam sang Giơ ne vơ không phải hiện đại như bây giờ, nhờ quán triệt đường lối đối ngoại của Đảng, của Bác Hồ, và cùng đều là những tâm hồn lớn, nhà ngoại giao lớn, nhà tư tưởng lớn, Tố Hữu đã biết “biết” chắc chắn Phạm Văn Đồng vui mừng thế nào khi Điện Biên chiến thắng và “sẽ nói” thẳng vào mặt bọn xâm lâm lược mà đại diện trên bàn hội nghị là Bidon (Pháp), Smit (Mỹ).

“Thực dân, phát xít
Đã tàn rồi!
Tổ quốc chúng tôi
Muốn độc lập hòa bình trở lại
Không muốn lửa bom đổ xuống đầu con cái
Nước chúng tôi và nước các anh
Nếu còn say máu chiến tranh
ở Việt Nam, các anh nên nhớ
Tre đã thành chông, sông là sông lửa
Và trận thắng Điện Biên
Cũng mới là bài học đầu tiên!”

Thực tiễn lịch sử Việt Nam sau chiến thắng Điện Biên Phủ đã chứng minh đúng tiên đoán, và cũng là lời đồng chí Phạm Văn Đồng. Sau chiến thắng Điên Biên Phủ, chúng ta có trận “Điên Biên Phủ trên không” đánh thắng cuộc chiến tranh bắn phá miền Bắc của đế quốc Mỹ, có chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước ngày 30/4/1975.

Về phương diện lý luận , không ai phủ định một chân lý là quyết định cho sự sáng tác chính là thực tế cuộc sống. Tác phẩm nghệ thuật xét đến gốc vẫn là một phản ánh của cuộc sống. Và, nhà văn chính là người thư ký của thời đại. Với thực tiễn, nhà thơ Tố Hữu đã từng mặc áo bộ đội, vai mang nặng ba lô, chân đạp rừng, gai đá sắc, trèo đèo lội suối, cùng ăn cơm vắt thấm nước, dãi gió nằm sương với anh bộ đội, với chị dân công hỏa tuyến nên khi đọc “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” không ai khẳng định Tố Hữu là một Chiến sĩ Điện Biên đã cùng chiến đấu với các chiến sĩ trên các chiến hào. 45 năm từ khi bài thơ ra đời, ai cũng nghĩ như vậy. Cho đến năm 1999, với sự ra đời của cuốn sách gây chấn động, “Chân dung và đối thoại” (Nxb Thanh niên,1999), Trần Đăng Khoa đã cho ta biết thực tế Tố Hữu đã sáng tác bài thơ trên không phải như chúng ta nghĩ.

Từ lúc mở màn đến khi kết thúc chiến dịch Tố Hữu không có lên Điện Biên. Ông bảo: “Nào mình có biết Điện Biên ở đâu mà đi. Đi sao được. Mà ai cho đi Hồng Cúm, Him Lam,...”, ông phải đi hỏi. “Mình hỏi mấy chú đã đến Điện Biên rồi. Hỏi xem ở đấy có những cái gì, mới biết mấy cái địa danh như thế đấy chứ, biết cả ở đó có cam, có mơ và rất nhiều hoa mơ. Chỉ mang máng thế thôi. Và rồi, những cái mang máng ấy, cũng chẳng biết sẽ để làm gì. Sau này khi viết, mình mới lôi nó ra, đưa vào thơ, cứ nhét bừa vào. Nó mới thành: Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam – Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng. Đấy, đơn giản là thế”.

Hồi ấy, Tố Hữu là trưởng ban Tuyên truyền, ông bảo “suốt ngày chỉ hong hóng chờ tin tức từ chỗ anh Trường Chinh, hoặc lại chạy sang bên Bộ Tổng, Quân ủy Trung ương, chỗ anh Văn, hỏi xem có đánh nhau ở đâu thì viết bài tuyên truyền.”. Ông nói: “Lúc ấy khoảng 5 giờ rưỡi hay 6 giờ chiều ngày 7/5. Rừng đã nhá nhem tối mới có điện từ chỗ anh Trường Chinh xuống. Mình mừng quá. Cái chuyện “Hỏa tốc, hỏa tốc/ Ngựa bay lên dốc” ấy là có thật. Đấy là con ngựa của chú liên lạc ở chỗ anh Trường Chinh. Và cũng chỉ có mỗi một con ngựa với chú liên lạc chứ làm gì có “Đuốc chạy sáng rừng”, với “Làng bản đỏ đèn lửa”. Khi viết là mình viết thế. Viết thế mới tạo được không khí, chứ làm gì có lửa mà đỏ rừng đỏ bản. Thực tế lúc ấy, nhìn ra xung quanh, rừng núi tối mù mù. Chỉ có vài ngôi nhà ở triền núi xa xa có ánh lửa le lói, chắc họ đang nấu cơm hay nướng sắn gì đó. Thế mà mình viết: “Đuốc chạy sáng rừng – Loa kêu từng cửa”. Cũng chẳng có loa đâu. Mà loa với ai. Dân ở xa, ở gần dân e bị lộ. Nguyên tắc bí mật tuyệt đối. Cơ quan Trung ương ở trong rừng, ở giữa lau tre. Mình ở nhà đất. Anh Trường Chinh cũng ở nhà đất. Chỉ có Bác ở nhà sàn. Ông cụ có đặc có đặc tính là thích ở nhà sàn và ở bên suối. Ông cụ vốn là người yêu sơn thủy hữu tình. Cơ quan Trung ương cũng đóng dọc bên suối, lán chìm trong lá cây. Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù mà. Bí mật là nguyên tắc. Vậy thì loa với ái. Thế mà vẫn “Loa kêu từng cửa. Làng là phịa. Chỉ có điều là mình phịa như thật, nên người ta cũng tha cho”.

Tố Hữu kể: “Bài Điện Biên được viết nhanh lắm. Sau chiến thắng tôi lên Bác ngay. Lên xin ý kiến Bác xem cần tuyên truyền thế nào. Có điều lạ là Bác rất bình thản. Bác bảo: “Đây chỉ là chiến thắng bước đầu thôi. Sao các chú cứ rối lên thế. Ta đánh là tất nhiên sẽ thắng. Quân đội ta là quân đội quyết chiến quyết thắng cơ mà. Bác khen các chú đánh giỏi. Nhưng đừng rối lên. Phải cảnh giác. Hết sức cảnh giác. Chiến tranh chưa kết thúc đâu. Kẻ thù của ta không phải là Pháp nữa, mà là Mỹ. Không khéo chuyến này, ta phải đánh nhau với Mỹ, còn lâu dài đấy, gian khổ đấy, đừng có tếu. Điều đáng kinh ngạc là Ông Cụ lại nói chuyện ấy trong ngày chiến thắng Điện Biên ... Cũng trong buổi gặp ấy, Ông Cụ bảo tôi làm tuyên truyền. Ông Cụ có bảo tôi làm thơ đâu, làm tuyên truyền động viên bộ đội đấy chứ. Tuyên truyền làm sao cho dân vui là được rồi. Tôi về, suốt đêm không ngủ được, cứ vẩn võ mãi. Tôi nghĩ: tuyên truyền bằng thơ là tốt nhất. Thơ dễ phổ biến, dễ nhớ, dễ thuộc. Mình không ra trận, nhưng cũng nghe lỏm được khối chuyện. Chỉ tội, chẳng biết Điện Biên ra sao. Rồi thid đèo Pha Đin, đèo Lũng lô, cũng chẳng thể hình dung được.

Tôi bèn đến hỏi Bác, Bác ngửa cái mũ lá ra: Điện Biên nó như thế này này. Nó là một lòng chảo. Đấy, cũng chỉ mang máng thế thôi. Thế rồi thì tôi viết, viết nhanh lắm, viết không đến hai ngày. Những gì mình nghe được về Điện Biên mình cho vào thơ hết, cho nó có vần, có điệu, vì nhịp thơ nó đi như thế. Lục bát thì còn phải cò cưa ký cưa, chứ ở đây, mình cho nó nổ tung lên, chẳng việc gì phải giữ đúng khuôn khổ. Có lẽ đây là bài thơ tự do nhất, viết sảng khoái nhất” (Chân dung và đối thoại, tr 19 -20). Ngay cả câu thơ “Tiếng reo núi vọng sông rền...”, Tố Hữu cũng cho biết “mình cũng phịa đấy”. Hồi đó đang phải bí mật, có ai dám hò đâu. Nhưng phải viết thế, phải tạo không khí như thế mới có cớ mà Hoan hô chứ. Mình Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Hoan hô ông Giáp. Lúc ấy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp oanh liệt lắm. Người ra trận mà. Một ông Tổng Tư Lệnh mặt trận...”. Khi được hỏi, bài thơ này khi viết xong Bác Hồ có đọc không, Tố Hữu nói: “Có chứ”. Thế Ông Cụ nói sao. Tố Hữu: “Ông Cụ chẳng nói sao cả. Chưa bao giờ Ông Cụ khen Thơ Tôi. Chỉ có anh Trường Chinh thì có khen, ví tôi với ông này, ông khác, nhưng anh ấy cũng nói tào lao cho vui thế thôi, còn Bác thì chưa bao giờ khen tôi cả” (Sđd, tr 21). Về tên bài thơ, Tố Hữu cho biết: “Lúc đầu mình lấy tên là “Điện Biên Phủ”. Nhưng sau thấy không ổn. Điện Biên Phủ chỉ là một địa danh. Mình đổi thành “Chiến thắng Điện Biên Phủ”, cũng lại thấy vô duyên. Nghe nó như tên một bài báo. Mình đọc lại bài thơ, thấy câu “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”. Thôi, lấy té luôn như thế cho rồi. Cái tên ấy hợp với không khí toàn bài”.

Cũng giống như nhà thơ Phùng Quán viết “Vượt Côn Đảo” (khi viết tác phẩm này, ông chưa hề đặt chân đến Côn Đảo, chỉ biết Côn Đảo qua lời kể của một số tù chính trị vượt Côn Đảo”, mặc dù những “Chiến sĩ Điện Biên” – những con người thực, những sự việc thực của việc chiến đấu 56 ngày đêm đó Tố Hữu chỉ hình dung qua lời kể, nhưng nó như một luồng sống ào ạt thổi vào tâm hồn Tố Hữu, làm nảy lên những câu thơ như “măng mọc sau mùa xuân”, như những đóa hoa đồng tươi thắm. Nói đến chiến sĩ ngoài mặt trận, hay chị dân công trên đèo, nhà thơ đã phải dùng sức tưởng tượng mà bồi đắp cho những hình ảnh về thực tế mà nhà thơ đã thâu lượm được từ trước hoặc qua lời kể. Và, sự bồi đắp ấy đã thành công. Điều quan trọng hơn, ở Tố Hữu (cũng như ở Phùng Quán), đã có sự thông cảm mãnh liệt đối với sự hy sinh, sức chịu đựng gian khổ của bộ đội, dân công dốc sức ra mặt trận đánh đuổi quân thù. Chính tình cảm của nhà thơ đã làm nên những câu thơ rung lên những nhạc điệu, những ý thơ lãng mạn, khiến người đọc vô cùng xúc động.

Trận đánh Điên Biên Phủ là trận đánh của dân tộc ta, với sau lưng là lịch sử hào hùng 4.000 năm chiến thắng ngoại xâm. Thực tế chiến dịch cho thấy, bên cạnh quân đội, cùng với quân đội là đủ mọi lực lượng: các đơn vị dân công hỏa tuyến, là thanh niên xung phong, là các văn nghệ sĩ,...

Và, trong trận chiến ấy, không chỉ có nam giới/ “các anh”, mà có cả nữ giới/ “các chị”. Xen lẫn mầu áo của bộ đội, có bóng áo chàm của các đồng bào dân tộc, bóng áo nâu sờn của người Kinh. Cả dân tộc ta đi vào trận đánh dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ và vị tổng chỉ huy trực tiếp là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tố Hữu đã gọi chung tất cả những người tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ bằng một từ chung là “ Chiến sĩ Điện Biên”, và, chỉ có 03 con người cụ thể, được Tố Hữu nhắc đến/ kể ra trong chiến dịch ấy, là Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng. Và, khi chiến thắng đến, Tố Hữu thay cho triệu triệu người dân Việt Nam ta Hoan hô, chưc mừng các Chiến sĩ Điện Biên: “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”. Ngoài hoan hô chiến sĩ Điện Biên, trong bài thơ, Tô Hữu chỉ hoan hô riêng một người: “Hoan hô Đại tướng Võ Nguyên Giáp” và “Vinh quang Tổ quốc chúng ta/ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa/ Vinh quang Hồ Chí Minh/ Cha của chúng ta ngàn năm sống mãi”.

“Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” – “Đại cáo bình Tây” của thời đại Hồ Chí Minh – hừng hực không khí chiến đấu và chiến thắng, tràn ngập lòng tự hào về dân tộc, đất nước và lãnh tụ!

Trương Nguyễn

Nguồn Văn Hiến: http://vanhien.vn/news/bai-tho-hoan-ho-chien-chien-si-dien-bien-cua-to-huu-dai-cao-binh-tay-cua-thoi-dai-ho-chi-minh-39589