Bác Tô và sự nghiệp 'trồng người'

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng và lãnh đạo nhà nước, Thủ tướng Phạm Văn Đồng – được gọi thân mật là bác Tô – luôn luôn quan tâm hết sức mình đến sự nghiệp nâng cao dân trí và đào tạo nhân tài.

Bác Tô và cha tôi - GS Nguyễn Lân.

Bác Tô và cha tôi - GS Nguyễn Lân.

Ngày 20/3/1955, tại kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa I trên cương vị người đứng đầu Chính phủ, bác Tô đã phân tích: phải thống nhất và củng cố ngành phổ thông, chú trọng phát triển các lớp trên của trung học (cấp II); đặc biệt chú trọng phát triển ngành chuyên nghiệp và đại học; mở rộng cơ sở rèn luyện cán bộ; phải chú trọng cán bộ công nông… cần thiết cho công cuộc khôi phục và kiến thiết. Bác gợi ý: “Chúng ta phải xây dựng trường đại học Hà Nội thành nơi đào tạo nhân tài của nước nhà”.

Không chỉ bằng lời nói, Thủ tướng đã ban hành Chỉ thị 114/TTg (3/1957) với nội dung: “Các cấp chính quyền phải lãnh đạo thực hiện kế hoạch thanh toán nạn mù chữ và bổ túc văn hóa ở địa phương... Phải giữ vững đội ngũ cán bộ, giáo viên bình dân học vụ, không nên thay đổi công tác, cần miễn giảm dân công cho họ, bồi dưỡng họ về năng lực, tinh thần và vật chất”. Sau đó 7 tháng, Thủ tướng đã mở cuộc vận động tổng tiến công giặc dốt, lấy tên là Chiến dịch Điện Biên Phủ diệt dốt. Nhờ đó mà trong 3 năm 1956-1958 ở miền Bắc đã có 2,16 triệu người thoát nạn mù chữ. Sau khi hoàn thành công cuộc xóa mù chữ các tỉnh ở miền Bắc đã đẩy mạnh hoạt động bổ túc văn hóa. Nếu như năm học 1957-1958 mới có 3.000 người tốt nghiệp bổ túc văn hóa cấp I, 174 người tốt nghiệp bổ túc văn hóa cấp II thì đến năm học 1959-1960 con số này đã tăng lên đến 27.300 và 1.474 người.

Ngày 12/4/1961 tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa II, bác Tô lại nhấn mạnh: “Nhiệm vụ cơ bản và bức thiết nhất là ra sức bồi dưỡng, đào tạo trong một thời gian không lâu một đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề, số lượng đủ, chất lượng tốt, có giác ngộ xã hội chủ nghĩa và có hiểu biết về kỹ thuật, về nghiệp vụ”. Trong việc này cần chú trọng cán bộ cho công nghiệp và hợp tác xã, nâng cao trình độ văn hóa, phổ biến rộng rãi những hiểu biết cần thiết về kỹ thuật sản xuất và xây dựng cho cán bộ, cho nhân dân lao động.

Đến kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa III (8/4/1965), trước âm mưu mở rộng chiến tranh của giặc Mỹ, bác Tô đã động viên nhân dân đưa sự nghiệp giáo dục nhanh chóng phát triển, xã nào cũng có trường cấp I, rất nhiều xã có trường cấp II, các huyện đều có một hay vài trường cấp III. Các trường đại học đi sơ tán về nông thôn, miền núi, nhưng vẫn đảm bảo duy trì đầy đủ chương trình học tập lý thuyết và thực hành. Chúng ta vẫn tiếp tục cử đi đào tạo hàng chục nghìn cán bộ tại Liên Xô, Trung Quốc và các nước Đông Âu anh em. Tháng 5/1968, tại kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa III, bác Tô đã phấn khởi thông báo: “Sống và chiến đấu hằng ngày giữa bom đạn của địch, nhân dân ta càng tỏ ra ham học hơn bao giờ hết... Số học sinh và sinh viên của chúng ta tăng lên không ngừng, nhà trường của chúng ta đi sát thực tế; mở ra những triển vọng mới của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gắn liền học với làm”.

Ngày 20/2/1973, tại kỳ họp đặc biệt của Quốc hội khóa IV, bác Tô đã sớm đề xuất nhiệm vụ: phải có kế hoạch đào tạo một đội ngũ cán bộ có chất lượng cho sự nghiệp phát triển toàn diện của đất nước.

Ngày 2/9/1975 sau chiến thắng lịch sử của Chiến dịch Hồ Chí Minh, bác Tô đã nhắc đến thành tựu giáo dục ở miền Bắc: “Chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng phấn khởi, nhất là trong lĩnh vực giáo dục phổ thông và đại học”, nhưng mặt khác bác rất nghiêm khắc đối với những bất cập, nhất là những sai lầm, khuyết điểm trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Chính bác Tô là người đề ra yêu cầu trường ra trường, lớp ra lớp, thầy ra thầy, trò ra trò, dạy ra dạy, học ra học. 20/11/1984, nói chuyện nhân ngày Nhà giáo Việt Nam, bác Tô đã khẳng định: “Phải có đội ngũ giáo viên giỏi thì mới có chất lượng giáo dục cao... Các thầy giáo, cô giáo hãy xứng đáng với vị trí cao quý của nghề mình... Cần có chính sách để tuyển được học sinh giỏi, có phẩm chất tốt vào các trường sư phạm... Một việc nữa cần giải quyết là tiêu chuẩn hóa giáo viên, cần phấn đấu để sau một thời gian các giáo viên đều đạt tiêu chuẩn đào tạo đã quy định, giáo viên cấp I phải có trình độ cao đẳng rồi trình độ đại học, giáo viên cấp II và cấp III phải qua Đại học Sư phạm... Ngành giáo dục và từng nhà trường phải xem việc cải thiện đời sống giáo viên, nhất là cải thiện điều kiện ăn, ở của giáo viên là yêu cầu quan trọng bậc nhất để bảo đảm dạy tốt, là một vấn đề thời sự nóng hổi có liên quan trực tiếp đến việc giải quyết mọi vấn đề của sự nghiệp giáo dục”. Về thực trạng của học sinh bác Tô đã có nhiều tâm sự: “Tại sao học sinh của mình mới 11-12 tuổi mà bận suốt ngày, bận hơn cả tôi nữa kia! Mình còn có thì giờ nghỉ ngơi một tý, nhưng học sinh thì không có thì giờ nghỉ ngơi. Cô giáo bắt nó giờ này làm việc này giờ kia làm việc kia. Nó phải làm đủ thứ. Các đồng chí phải coi lại… Cái học được trong nhà trường phổ thông và đại học chưa nhiều lắm đâu. Nhưng nếu người thanh niên biết dùng vốn đó để tiến lên thì có thể sẽ trở thành những nhà bác học. Chúng ta muốn thanh niên ta trở thành những bác hoc, nhiều chừng nào tốt chừng ấy”.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng thăm Viện Khoa học Việt Nam năm 1981. (Ảnh tư liệu).

Về trường, về lớp bác Tô rất băn khoăn: “…Để cho trường lớp như hiện nay thì khó lắm. Vấn đề ánh sáng vô cùng quan trọng. Về mùa đông, ánh sáng ở nhiều lớp học không tốt. Điều này có hậu quả nghiêm trọng đối với đôi mắt của các cháu. Vì vậy nơi nào chưa đủ ánh sáng thì phải kịp thời tìm biện pháp để có thêm ánh sáng cho các lớp học. Vấn đề bàn ghế cũng không phải là việc nhỏ. Đến thăm lớp học của các cháu chúng ta sẽ chứng kiến nhiều hiện tượng đáng phàn nàn: lớp học chưa đủ rộng, lại chưa đủ bàn ghế, hàng 50 - 60 cháu ngồi chen nhau. Ngồi chật thì không thể học tốt được... Nhiều địa phương có ý định làm cho trường học là nơi đẹp nhất của địa phương mình. Đó là ý nghĩ quý lắm. Một cán bộ phụ trách ở địa phương mà làm cho mọi người nhận thức được rằng trường học là nơi đẹp nhất của địa phương thì quý lắm, rất quý. Cần từng bước thực hiện cho được ý nghĩ quý hóa đó”.

Về giáo dục đại học bác Tô gợi ý: “Ngay như ở Mỹ, các trường đại học của nó cũng gắn với lao động sản xuất chặt chẽ lắm. Các trường đại học ký hợp đồng với các xí nghiệp lớn để nghiên cứu, nghiên cứu những cái gì đem lại cho nó nhiều lợi nhuận. Không phải chỉ về khoa học, về kỹ thuật, mà cả về kinh tế, về ngoại giao nữa”.

Về các thiếu sót trong giáo dục đại học bác Tô tận tình chỉ bảo: “Trước mắt, để bắt đầu thực sự chỉnh đốn nền giáo dục đại học nước ta, cần khắc phục cho được những sai lệch nổi cộm dưới đây: Chấm dứt việc mua bằng, mua chức, bán điểm. Mọi người chúng ta đều biết, có người biết rất rõ, từ đó rất buồn phiền và đau khổ, bởi những hư hỏng về tính trong sạch, lành mạnh của nền giáo dục nước ta trong cả hệ thống, từ cơ quan cao nhất cho đến những đơn vị nhỏ nhất. Đây là sự mua bán đủ kiểu, đủ cách, dưới nhiều dạng rất khác nhau: mua bằng, mua chức, mua điểm; thậm chí có nơi người ta kháo nhau chỉ cần mấy chục triệu đồng thì có bằng tiến sĩ, mười mấy triệu là có bằng cử nhân”…

Tôi có nhiều dịp được làm việc với bác Tô trong một khoảng thời gian khá dài. Ngoài cảm nghĩ bác là một nhà cách mạng chân chính, một mẫu mực về đạo đức, một nhà văn hóa uyên bác, tôi còn nhìn thấy rất rõ bác là một nhà giáo dục tài năng và đầy tâm huyết với sự nghiệp trồng người. Bác nhiều lần gọi tôi lên căn phòng gần Hồ Tây để cùng ăn cơm với bác. Có lần cả vợ tôi cùng được mời. Có nhiều điều tôi muốn thưa với bác, nhưng bác ân cần bảo: “Cháu cứ ăn cơm đi đã, bác dành thời gian nghe cháu”. Hôm chúng tôi cưới nhau bác viết thư chúc mừng kèm theo một chai rượu quý. Với cha tôi, bác thường ân cần thăm hỏi tại nhà riêng hoặc qua thư từ.

Vào một dịp Tết cha tôi nhận được bức thư của bác:

Lão Đồng chí Nguyễn Lân thân mến,

Năm nay tôi lại có niềm vui mừng đọc bức thư và bài thơ của Lão Đồng chí, tôi rất vui mừng trước những tình cảm sôi nổi của tác giả đối với đất nước và đối với cá nhân tôi.

Tôi thân ái chúc Lão Đồng chí tuổi càng cao tầm nhìn càng cao, tấm lòng càng rộng, hoạt động càng phong phú và thơ càng hay! Về phần tôi, tôi tiếp tục cố gắng làm việc và bằng việc làm cố gắng xứng với những tình cảm cao đẹp của Lão Đồng chí và đồng bào.

Thân ái

Phạm Văn Đồng

Tôi hiểu đó không phải là những tình cảm dành riêng cho cha tôi, mà là tình cảm dành chung cho các nhà giáo, trong đó có cha tôi - một trong những nhà giáo lão thành.

Nguyễn Lân Dũng

Nguồn Đại Đoàn Kết: http://daidoanket.vn/tinh-hoa-viet/bac-to-va-su-nghiep-trong-nguoi-tintuc434978