Ba triều dựng nước (Ngô - Đinh - Tiền Lê) - (Tập II - Kỳ 45)

Trân trọng giới thiệu tiếp chương I - Tập II ' BA TRIỀU DỰNG NƯỚC (NGÔ - ĐINH - TIỀN LÊ)' trong bộ Tiểu thuyết Lịch sử 'Việt Nam Diễn Nghĩa' của PGS TS Cao Văn Liên do NXB Hồng Đức- Hà Nội ấn hành năm 2019.

Tượng vua Lê Đại Hành trên bàn thờ tại khu di tích cố đô Hoa Lư tỉnh Ninh Bình. Nguồn: Internet.

Kỳ 45

CHƯƠNG III

Sau khi ổn định tình hình ở Chiêm Thành, Lê Đại Hành kéo quân về Hoa Lư theo đường biển. Trong những năm trị vì tiếp theo, Lê Đại Hành đã tự thân chinh đánh dẹp các cuộc phản loạn của các hào trưởng ở các địa phương Đại Cồ Việt. Năm 989, Dương Tiến Lộc làm phản ở Ái Châu, Hoan Châu đã bị Lê Đại Hành đánh dẹp. Năm 996 Lê Đại hành đánh được 4 động Đại, Phát, Đan, Bà ở Ma Hoàng. Tháng 7 năm 996 vua thân đi đánh Phan Quang ở Đỗ Động Giang, bắt bọn phản loạn đem về kinh sư. Năm Kỷ Hợi 999, niên hiệu Ứng Thiên năm thứ 6, vua đánh dẹp ở Hà Đông, phá được động Nhật Tắc, châu Định Biên, khiến 49 động còn lại phải quy phục triều đình. Năm 1000, niên hiệu Ứng Thiên năm thứ 7, vua đi dẹp loạn ở Phong Châu, đánh dẹp bọn Trịnh Hàng, Trường Lê, Đan Trường Ôn khiến bọn này chạy vào núi Tản Viên. Năm 1001, niên hiệu Ứng Thiên năm thứ 8, Lê Đại Hành dẹp loạn ở Cẩm Thủy, Ái Châu. Vua đi thuyền vào Cùng Giang để đuổi giặc, bị giặc mai phục bắn tên. Vệ Vương Đinh Toàn đi cùng vua trúng tên hy sinh tại trận, khi đó Vệ Vương mới 17 tuổi. Vua đau đớn kêu trời ba tiếng rồi thúc quân đánh dữ dội khiến giặc phải tan vỡ.

Năm 995, để chọc giận Tống Thái Tông, Lê Đại Hành cho quân đánh vào trấn Như Hồng, thuộc Khâm Châu. Mùa hạ cùng năm đó Lê Đại Hành dẫn 5000 quân đánh vào Lộc Châu thuộc Ung Châu, Quảng Nam Tây Lộ, giao chiến với quân Tống do Tuần Kiểm Dương Văn Kiệt chỉ huy. Lê Đại Hành còn ra sức phát triển kinh tế nông nghiệp và thủ công nghiệp là hai trụ cột của kinh tế nước nhà. Mùa xuân 987, ngày 1 Tết Nguyên Đán vua tự cày ruộng ở Núi Đọ, Ái Châu, mở đầu cho lễ tịch điền về sau cho các triều đại để khuyến khích thần dân chăm lo nông nghiệp. Vua còn chú ý đào sông cho thuận tiện giao thông và tưới tiêu cho nông nghiệp. Năm 1003, Lê Đại Hành đi Hoan Châu, chỉ huy vét kênh Đa Cái, thông đến Tư Củng Trường, Ái Châu. Vua tổ chức đào sông nối Hoan Châu với Ái Châu, mở ra đường giao thông thủy nội địa đầu tiên.

Sau chiến tranh 980-981 nhà Tống bị đánh bại nên phải giảng hòa. Vua Tống Thái Tông sau đó phong Lê Đại Hành các chức như Đặc Tiến, Giao Chỉ Quận Vương, Nam Bình Vương Kiêm Thị Trung. Tháng 10-986, Lê Đại Hành trao trả các tướng Tống bị bắt trong chiến tranh 980-981 như Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân cho nhà Tống. Năm 987, sứ giả nhà Tống là Lý Giác sang Đại Cồ Việt. Lê Đại Hành sai Đỗ Pháp Thuận giả là người chèo đò ra đón. Hai bên làm thơ ngâm vịnh với nhau. Năm 990 nhà Tống sai sứ sang sắc phong, Lê Đại Hành nhận tờ chế nhưng không quỳ lạy, còn nói với sứ giả bảo Tống Thái Tông có chiếu, thư từ thì giao cho quan Đại Cồ Việt ở biên giới và họ chuyển về để khỏi nhọc sứ giả đến Hoa Lư vất vả. Vua Tống nghe theo. Từ đó Đại cồ Việt đỡ được gánh nặng lễ nghi đón tiếp sứ giả.

Năm 982 Lê Đại Hành lập Dương Vân Nga làm Đại Thắng Minh hoàng hậu. Cuộc hôn nhân này hai người sinh được công chúa Lê Thị Ngân, sau công chúa là hoàng hậu của Lý Thái Tổ, thân mẫu của vua Lý Thái Tông sau này. Ngoài ra, Lê Đại Hành còn có các hoàng hậu khác như Phụng Càn Chí Lý hoàng hậu, Thuần Thánh Minh Đạo hoàng hậu,Trinh Quốc hoàng hậu, Phạm hoàng hậu. Ngoài công chúa Lê Thị Ngân, Lê Đại Hành còn có các hoàng tử: Lê Long Thâu, trưởng nam, tức Kinh Thiên Đại Vương (mất năm 1004), Lê Long Tích, tức Đông Thành Vương, Lê Long Việt, tức Nam Phong Vương, được phong hoàng thái tử, Lê Long Đĩnh, tức Khai Minh Đại Vương, Lê Long Đinh, tức Ngự Man Vương, Lê Long Kính, tức Trung Quốc Vương, Lê Long Cân, tứcNgự Bắc Vương, Lê Long Tung, tức Định Phiên Vương, Lê Long Tương, tức phó Vương, Lê Long Mang, tức Nam Quốc Vương, Lê Long Đề, tức Hành Quân Vương và con nuôi Dương Hy Liễn, tức Phù Đài Vương.

Năm 1005 Lê Đại Hành băng hà ở Trường Xuân Điện, thọ 64 tuổi (941-1005), ở ngôi 26 năm với ba niên hiệu: Thiên Phúc (980-988), Hưng Thống (989-993) và Ứng Thiên (994-1005). Lê Long Việt lên ngôi, đế hiệu Lê Trung Tông, được 3 ngày, Lê Long Đĩnh sai người giết chết Lê Trung Tông và lên ngôi. Đến năm 1009 Lê Long Đĩnh băng hà, tháng 10 Kỷ Dậu, thọ 24 tuổi, ở ngôi 5 năm. Con trai Lê Long Đĩnh là hoàng tử Sa còn bé. Đại thần là Đào Can Mộc đưa Điện Tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn, người lấy con gái của Lê Đại Hành và Dương Vân Nga là công chúa Lê Thị Ngân lên ngôi, đế hiệu là Lý Thái Tổ. Năm 1010 Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Đến năm 1054 Đại Cồ Việt đổi thành Đại Việt.Lịch sử ba triều Ngô- Đinh-Tiền Lê khép lại với công lao to lớn là thống nhất đất nước, đánh bại cuộc xâm lược của nhà Tống, bảo về độc lập dân tộc được 278 năm (980-1258) đặt nền tảng cho việc xây dựng xã hội phong kiến, nhà nước phong kiến chuyên chế Việt Nam để đến trang sử tiếp theo dưới các vương triều Lý -Trần là thời kỳ phát triển, viết nên những khúc ca khải hoàn tiếp theo trong lịch sử dựng nước và giữ nước của Đại Việt.

(HẾT TẬP II)
Hà Nội 17 tháng 6 năm 2019
CVL

PGS TS Cao Văn Liên

Nguồn Văn Hiến: http://vanhien.vn/news/ba-trieu-dung-nuoc-ngo--dinh--tien-le---tap-ii--ky-45-75759