60 năm sống trên lò phóng xạ

Người Dấu Cỏ ở Đông Cửu (Thanh Sơn, Phú Thọ) sống gần 60 năm trên lò phóng xạ. Song, họ chỉ mới biết sự thật ấy 15 năm nay. Trong 15 năm, mấy chục con người co cụm thành cái xóm rừng heo hút đó, vẫn từng ngày, từng giờ khắc khoải tìm chốn bình yên.

Người đàn bà ấy bỏ ông đi trong một chiều mưa lặng lẽ. Bà không đủ sức ở lại cái góc núi chôn vùi gần nửa cuộc đời với đằng đẵng đau thương nữa. Chỉ còn lại đôi mắt trống trải của ông, ngơ ngác buông vào bóng rừng tím thẫm. Ngày lại ngày, ông ngồi đăm đăm bên hai ngôi mộ thấp tè, hai đứa con, chúng mất khi mới lên hai, lên bốn. Tối tối, đối diện nỗi buồn vô tận, ông chỉ còn biết cầu nguyện, tìm chút niềm tin le lói nơi đức Chúa. Ông được một bộ phận dân làng công giáo nhỏ bé ấy bầu làm trưởng bản. Một phần vì ông thạo tiếng phổ thông hơn người Dao, cái nữa là gia đình ông có sinh linh yểu mệnh đầu tiên trong bản, nên bà con chất phác nghĩ rằng, ông sẽ làm mọi điều để xua đuổi những bóng ma.

Đến nay, ông Lê Văn Chiêu đã làm trưởng bản Dấu Cỏ ngót hai thập niên. Nửa thế kỷ, bản của ông có hai cuộc di cư về cửa rừng Đông Cửu. Dù khó khăn đi lại hay điều kiện sống nhưng đồng bào vẫn nhất quyết phải tồn tại và khai hóa những vòm đồi Thanh Sơn cao nhất. Họ muốn lẩn tránh thế giới bên ngoài, cất giấu nỗi đau chưa bao giờ đến hồi kết, như con thú bị thương sợ phơi bày yếu điểm của mình.

Một góc bản Dấu Cỏ - khu vực nhiễm xạ.

Một góc bản Dấu Cỏ - khu vực nhiễm xạ.

Ông Chiêu nhớ lại cái dáng người vợ đầu, cứ nhỏ dần sau triền dốc, mười mấy năm vẫn day dứt ám ảnh, bảo với chúng tôi, bà ấy đúng, bà ấy khao khát được làm mẹ, nhưng nếu ở lại và sinh thêm những đứa con, chắc gì chúng sống nổi. Hàng chục đứa trẻ trong làng đã chết, nhiều người cũng phải bỏ xứ rồi.

Tìm đến rốn tử thần

Năm 1961, sau nhiều ngày bàn luận lung lắm, người Dao ở Dấu Cỏ kiên định ý chí hạ sơn, chấm dứt hàng chuỗi thập kỷ lang bạt non cao mà ông cha để lại. Họ miệt mài đi, cuối cùng dừng chân bên dòng suối góc rừng Đông Cửu. Từ đây, cuộc đời của 20 hộ dân khi ấy mở sang trang mới, viết nên bao đau thương, bế tắc, với tang tóc, bệnh tật triền miên, trùm lên ngôi làng thê lương năm này nối năm khác, đời nọ nối đời kia.

“Trong gần 10 năm trời, cả bản không tăng thêm hộ dân nào. Trẻ con mất nhiều quá, không thể kể tường tận bao nhiêu phụ nữ mang thai chết lưu, chỉ thống kê được những đứa “may mắn” chào đời. Rồi vài tuổi, thậm chí vài tháng, cứ dị dạng, liệt não, bất thình lình sau một đêm trở thành cái xác cứng đờ”, ánh mắt trưởng bản Chiêu vô định, rơi vào thung lũng mờ xa. Nhìn cuốn sổ ghi danh sách người còn, người mất ông đưa cho tôi, con số xấp xỉ cân bằng.

Dấu Cỏ đón chúng tôi khi không còn đường để đi nữa. Đồi rừng trải dài lám nhám xám, chìm trong lép nhép sa mù, ẩm ướt như mắt người thiếu nữ đương khóc dở. Hai bên núi lở liên miên thành hố ta luy, hoa dại rạp nát lẫn bùn tựa những đàn bướm chết. Nhưng cái cảnh ngợp ngụa hơi nước ấy, sau một đêm, chỉ còn rơi rớt vài tiếng đồng hồ, khi mặt trời vượt khỏi ngọn keo tai tượng, từng mét không khí bị nung trong gió nóng, phế quản tưởng đang rang lên đối với những người khách lạ. Thứ khí hậu khắc nghiệt khiến Dấu Cỏ quanh năm chỉ có dân bản địa, không ai xuôi ngược bận tâm đến cái ngôi làng vùng cao mang hơi hướm trung du ấy. Thế nhưng, có vài phụ nữ đã bén duyên xứ sở lặng lẽ này. Họ đem chút tươi sáng về bản, bởi họ sống cách xa bản hàng trăm cây số, biệt tịch hẳn với tiếng khóc tang thương hàng mấy thập kỷ nơi đây. Dẫu sao, đàn ông ở Dấu Cỏ lấy được vợ dưới xuôi cũng là cuộc cách mạng rồi.

Hầm khai thác cao lanh trái phép ở Thanh Sơn không được hoàn thổ.

Chị Nguyễn Thị Sỹ - người vợ thứ hai của trưởng bản Lê Văn Chiêu, quê tận Thanh Thủy, quen ông mấy bận xuống chợ, khi lên núi đã thành vợ chồng. Lên núi cô mới biết Dấu Cỏ nhiều nấm mồ trẻ con đến thế. Ngày ngày, cô chứng kiến cảnh bọn trẻ trong làng nô đùa dọc những triền đồi dốc dác, đứa nào da cũng xanh bủng, ốm nhách, có đứa đầu to lêu bêu, đi liêu xiêu như kéo lê cái thân tàn theo thời gian. Rồi có đứa hôm sau không còn thấy mặt. Cái thai trong bụng cô cứ lớn dần cùng bao hoang mang lo sợ. Tới tháng thứ năm, đứa trẻ đã không còn cơ hội chào đời. “Vợ tôi tiếp tục mang thai, tưởng sẽ sinh được nhưng đến tận tháng thứ tám rồi mà nó lại bỏ đi. Nay vợ chồng tôi có hai con, dù càng lớn chúng càng ngờ nghệch, thiểu năng trí tuệ, song vẫn may hơn nhiều gia đình...”, nước mắt lăn thành vệt trên gò má xạm đen của ông. Sáng nào cũng vậy, công việc đầu tiên của người làng Dấu Cỏ là chạy đến giường nhìn khuôn mặt con mình, nắn nắn đo đo, xem kích thước, hình dạng thay đổi gì không và phải đợi chúng qua tuổi 13 mới yên tâm.

Đường vào Dấu Cỏ qua nhiều dốc. Trụ sở chính quyền xã Đông Cửu nằm kế bên một con dốc cao nhất. Từ phía đó, Bí thư Đảng ủy xã Hà Ngọc Phiến, người Mường, chỉ tay bảo, cánh đồng dưới chân núi là người Dấu Cỏ vỡ hoang, trước chỉ có đồi hóa. Nơi góc rừng vô số vườn mận, vào mùa hoa trắng như sương. Thời thập niên 90, cây lương thực, hoa màu, gia súc, gia cầm cho năng suất, dân làng no đủ; từ năm 2000 trở đi, ngô lúa kém hẳn, gà vịt hầu như không đẻ trứng nữa... Mới đầu, ai cũng đổ lỗi do thời tiết nhưng rồi người làng ốm yếu, bệnh tật nhiều, những cái chết dần tăng, họ lại nói, chắc “ma rừng” làm! Và lập đàn cúng bái, mời thầy tứ phương, song rốt cuộc ngôi làng xơ xác ấy vẫn chẳng thêm được nhân khẩu nào.

Năm 2004, trưởng bản Lê Văn Chiêu vận dụng hết vốn tiếng việt, viết lá đơn gửi lãnh đạo xã, thể hiện sự đồng lòng của bà con không còn tin vào các thầy cúng, mong cán bộ về cứu dân. Xã Đông Cửu lại có văn bản lên huyện, huyện lên tỉnh, tỉnh nhờ cơ quan trung ương, bởi họ cũng chẳng biết cứu cách nào! Hai năm sau, cuối 2006, đoàn khảo sát Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đến Dấu Cỏ đo đạc, kiểm tra thực địa. Họ phân tích hiện trạng, kết luận dưới lòng đất chứa mỏ urani thiên tạo, nguyên tố nhiên liệu trong lò phản ứng hạt nhân; môi trường và con người ở bản bị nhiễm phóng xạ gấp ba lần mức độ cho phép.

Sau bận ấy, ông Chiêu lên xã họp, nghe cán bộ nói, làng ông đang sống trên cái mỏ quý hiếm, còn hơn cả vàng bạc, nhưng phải rời đi nơi khác. Rồi ông về nói với đồng bào Dao, và họ đợi chính quyền tìm chỗ ở mới! Tối đến, bên bếp lửa, những người già láng máng nhớ, đầu năm 1980, có đoàn chuyên gia Nga từng đến đây, mặc đồ bảo hộ kín mít, trông rất kỳ quái, đào bới, lấy đất mang đi, chắc để nghiên cứu, vậy mà họ chẳng cho dân tình biết!

Toàn cảnh khu tái định cư

Rồi 5 năm, 10 năm trôi qua, niềm tin dần ăn mòn trí nghĩ người dân Dấu Cỏ. Họ vẫn sống nơi chân núi, và cơ man nấm mộ cứ lan rộng dọc sườn đồi. Họ không rõ phóng xạ là gì, quý hiếm ra sao, họ chỉ biết đó là lò thuốc độc, cầu Chúa ban phước lành để có thể sống chung với tử thần.

Chiều. Mây xám loang bóng xuống đồng bằng rải rác ao hồ. Mưa lắc rắc thương vương trên những triền núi đá. Phía sau các căn nhà gỗ, có biết bao thân phận phụ nữ dân tộc Dao, cả đời chỉ mong một lần sinh nở như mọi con người. Cái ánh mắt thảng thốt, đau đáu của chị Hồng cứ nhòa dần trong hoàng hôn thê thiết ấy. Người con gái tận Kim Thượng lên làm dâu Đông Cửu đó kể với tôi rằng, chị từng mang cái thai chết lưu vượt hàng trăm cây số, nhưng chỉ khi đến Bệnh viện thành phố Việt Trì, chị mới biết điều đó.

Đời trôi!

Bản Dấu Cỏ tọa lạc phía đông bắc của dãy núi trải dài, là nơi những con suối thượng nguồn tây nam Đông Cửu đổ về. Nước trôi vào ao hồ, trôi sâu lòng đất, trôi trong huyết quản người dân. Bà con biết rằng, dù vào mùa khô hạn, đất nứt toác ra, suối vẫn ăm ắp nước, đó là thứ tài nguyên trù phú để họ sinh kế đời này sang đời khác. Nhưng có điều mà người Dao không biết, các thân quặng pegmatit chứa hàm lượng nguyên tố phóng xạ lại nằm trong những khe suối đó. Họ làm sao nghĩ tới cái phạm trù cao siêu ấy, họ không thể hiểu việc sinh hoạt, canh tác chăn nuôi và bao hoạt động khác càng làm chất độc phát tán mạnh hơn; càng ăn uống và lao động thì cái chết, bệnh tật xuất hiện càng nhiều.

Sau 10 năm, kể từ ngày ông Chiêu có đơn kêu cứu, người dân vẫn chưa thể đến nơi ở mới. Trong khoảng thời gian đó, các nhà khoa học nghiên cứu, đo đạc được 976ha đất Đông Cửu bị nhiễm xạ, riêng Dấu Cỏ chiếm 10,4ha, là vùng lõi nguy hiểm. Theo lãnh đạo huyện Thanh Sơn, diện tích phát tán phóng xạ có chiều hướng khó kiểm soát, thậm chí lan sang các xã lân cận.

Khác với nhiều miền quê Bắc Bộ, Thanh Sơn được thiên nhiên ưu ái là vùng đất giàu khoáng sản, cũng bởi lẽ đó, suốt nửa thế kỷ qua, chính quyền nhiều thời kỳ luôn phải đối mặt vấn nạn quặng tặc hoành hành. Và vô tình, việc khai thác trái phép này đã thúc đẩy nhanh nhất tốc độ lây lan phóng xạ.

Cuối năm ngoái đến nay, đường vào Đông Cửu vốn nát bươm thì giờ băm vằm ra từng khúc, sống trâu lổm ngổm. Sau mỗi chiếc xe chở quặng, bụi không ngớt trương phồng lên thành những đám đỏ quạch. Lợi dụng hạ cốt nền, hàng nghìn khối cao lanh đã bị múc đi khỏi vùng đất này. Phó Chủ tịch UBND xã Phan Huy Biên cho biết, trước đây bà con san gạt mặt bằng, một số đối tượng tranh thủ cơ hội đưa máy xúc vào khai thác, vận chuyển, mang tập kết ở bên huyện Tân Sơn. “Chính quyền đã kiểm tra, lập biên bản phạt hành chính, làm rào chắn, nhưng chưa thể ngăn chặn dứt điểm”, một người dân phản ánh.

Những đứa trẻ xóm Dấu Cỏ ở bản mới

Chỉ nhìn cái “khai trường” ngơm ngam trên quả đồi xót đôi ba khoảnh rừng ấy, cũng đủ nhận biết, môi trường và đất đai nơi đây sẽ không còn dịp tái sinh. Hầm hố chưa hoàn thổ ngoác ra những hốc miệng đen ngòm. Dưới chân núi, đất đá tràn vào đồng ruộng cằn cỗi, kèm theo thứ nước sền sệt, vàng ệch. Tôi đã đến Thanh Sơn vài lần, từng thấm thía cảnh người ta lôi lên khỏi hầm cái xác mềm oặt, máu phòi ra, bầm lại như tiết trâu. Khuôn mặt họ đờ đẫn ngấm vào bóng chiều ảm đạm.

Bữa ấy, khi ráng nắng cuối cùng lịm dần, chúng tôi đi qua năm, sáu trái đồi, đứng trên vô vàn bình địa cày xới lam nham, ngắm những đoàn người lên cao, lên cao..., mới hay, chắc chỉ khi hết man gan, cao lanh, silic… thì lòng đất mẹ sẽ thật sự ngủ yên. Và khi đó, không chỉ tài nguyên cạn kiệt, mà xứ sở này còn khoác thêm vẻ hoang tàn, chết chóc vì nhiễm xạ.

Quá trưa hôm sau, cơn mưa rừng bất chợt, từ lưng núi, nước dội xuống đồng bằng ầm ào như thác đổ. Trong căn nhà anh Lê Văn Thắng, tôi nhìn qua khung cửa gỗ tranh tối tranh sáng, những thửa ruộng trũng mênh mông, hun hút đang nuốt trọn mọi vật tràn về của thượng nguồn. “Mỗi hộ chỉ có 2,7ha lúa và 0,5ha sắn. Nhưng từ dạo công bố bản nhiễm xạ, mọi sản phẩm dân Dấu Cỏ làm ra, không dễ bán mua, đổi chác nữa. Nghèo lại càng nghèo”, anh Thắng nói. Dẫu sao, đời người Dấu Cỏ vẫn phải sống nhờ vào đấy!

Những căn nhà trên... ngọn cây!

Từ dạo biết mình sống trên lò phóng xạ, đời người Dấu Cỏ trở thành cái vòng luẩn quẩn. Không còn như nửa thế kỷ trước, thời du mục kiểu Đam San của ông cha, muốn di cư đến đâu là đi. 5 năm trời sau lá đơn mòn mỏi, những tưởng họ cũng nhìn thấy một chốn “an cư”.

Giữa năm 2010, UBND tỉnh Phú Thọ quyết định rót 25 tỷ đồng, xây dựng khu tái định cư. Theo đó, công trình triển khai trong hai năm, do Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm chủ đầu tư. Dự án thực hiện trên tổng diện tích gần 65.000 m2, gồm các hạng mục đường giao thông, hệ thống thoát nước, cấp điện với trạm biến áp 100KVA... Đồng bào Dao đến ngắm, lần đầu trong đời họ nhấm nháp cảm giác hạnh phúc, ai nấy mắt ngân ngấn nước. Rồi cũng đến ngày, họ được thông báo có thể dọn về. Khổ nỗi, nơi ở mới không có nhà, họ phải mang… nhà cũ đến. Chính quyền chưa tính giúp bà con cái chuyện, nhà cũ họ vẫn chui ra chui vào mấy chục năm nay, để nguyên còn gọi là nhà, chứ dỡ ra chỉ còn đống củi mục. Đành vậy, người Dấu Cỏ lại về nơi cũ. Thi thoảng, có việc đi qua cái cái công trình 25 tỷ đồng, họ ngậm ngùi nhìn cỏ hoang mọc um tùm.

Gần sáu năm nữa lại trôi qua! Người dân Dấu Cỏ không còn kêu cứu nữa. Họ cam chịu vá víu đời mình với nỗi đau, tựa định mệnh mà Chúa buộc họ phải vượt qua trước khi lên thiên đàng. Dường như từng ấy thời gian, cơ quan thẩm quyền các cấp cũng nhận ra, không thể vùi chôn 25 tỷ đồng, nên phê duyệt thêm kinh phí “hỗ trợ chuyển nhà” và cấp nước sinh hoạt. Bởi khu định cư lúc đó chỉ làm cống thoát nước, còn lấy nước từ đâu đã có các dòng suối. Dù “cái gì cũng thiếu”, trưởng bản Chiêu bảo thế, nhưng “đời mình bỏ rồi, vẫn còn đời con đời cháu nữa”! Về chỗ mới, dân làng nhận ra, còn thiếu điều quan trọng nhất, đó là làm gì để sống!?

“Di chuyển đồng bào ra khỏi vùng nguy hiểm là mục tiêu cốt yếu, nhưng để bảo đảm cho họ cuộc sống ổn định, thoát nghèo thì cần thay đổi tập quán canh tác, nhận thức về sản xuất. Trước mắt, chưa có biện pháp khả thi hỗ trợ người dân chuyển đổi ngành nghề”, Bí thư Đảng ủy xã Hà Ngọc Phiến trăn trở.

Về nơi ở mới, người Dấu Cỏ chưa thể an cư.

Từ nơi ở mới về nơi ở cũ ngót năm cây số đường núi. Sáng nào bà con Dấu Cỏ cũng cuốc bộ lên đó. Đất vườn khu định cư chỉ đủ trồng vài thứ rau tạp, nên dẫu rằng, cái vùng trũng trên miền chót vót ấy có nhiễm độc đến mức nào, thì gần trăm nhân khẩu vẫn phải trông chờ từ đồng ruộng và hợp đồng khoán bảo vệ rừng. “Trẻ con không cho phép bén mảng tới, nhưng người lớn phải vào mà làm ăn, đằng nào cũng bệnh tật rồi. Ban đầu còn chịu khó đi lại trong ngày, dần người ta dựng lều ở luôn, trông coi cho tiện, thi thoảng mới “về thăm nhà”. Tôi nghĩ, để sinh kế lâu dài, người Dao có thể trồng cỏ nuôi bò thương phẩm, mô hình không tốn diện tích… Vấn đề nan giải là khâu tư vấn, lấy vốn ở đâu?”, ông Chiêu trầm ngâm.

Trong cái hơi nồm ngột ngạt tựa hồ nghẽn sâu tận vòm họng, vào tới chiếc chòi canh rừng đầu tiên, người tôi như được bọc bởi làn hơi mỏng. Một cái đầu xùm xụp ló ra, áo choàng to đùng, nón lá rách tươm, vẫy vẫy, bảo, ngồi uống trà đã. “Đợi nắng tí, giời ráo ráo hãy đi, vắt nhiều lắm. Cả đời ở thế này, quen rồi. Trông rừng đừng để hụt cây nào, trừ tiền chết. Ruộng nữa, bỏ đấy thì mưa xuống, đất khai thác quặng tràn lấp, thành cánh đồng hoang luôn”, đôi lưỡng quyền người đàn ông nhô cao, mặt rúm lại sau cơn ho sù sụ. Nhấp ngụm nước lờm lợm, trưởng bản Chiêu giới thiệu, anh Lê Văn Sơn, vợ sảy thai năm lần rồi.

Gần 60 năm sống trên lò phóng xạ, người Dấu Cỏ đã chật vật về được nơi ở mới. Số nhân khẩu của làng cũng tăng lên, nhưng bệnh tật, chết chóc chưa thôi ngừng, khi con đường “lạc nghiệp” vẫn mịt mùng. Những ngôi nhà gỗ thơm mùi sơn mới, chẳng thể là gốc rễ giúp họ an cư, khi họ còn ăn cơm trên đồng ruộng cũ, hít thở căng phồng lồng ngực thứ không khí ông cha họ đã tìm ra. “Trên cơ sở khảo sát hàm lượng nhân tố trong thực vật, nước, tính liều hiệu dụng qua đường hô hấp, tiêu hóa, xác định 5 hộ dân có suất liều gamma tại nhà lớn hơn 0,6µSv/h; 16 hộ chịu mức 5,03 - 18,63mSv/năm”. Ấy là thông tin cuối cùng lãnh đạo xã Đông Cửu nói với tôi trong lần về Thanh Sơn này.

Sau lưng dốc, chỉ còn loáng thoáng vài đứa trẻ chăm sóc mấy luống rau. Bố mẹ chúng đã vào rừng. Có đứa bập bẹ nói với tôi, anh con ngủ cùng cả đêm, sáng ra, bị mang lên đồi liền. Ánh mắt nó dại đi, nó đâu biết, ở xóm nó, nấm mồ trẻ em nhiều hơn người lớn. Phải đợi nó trưởng thành, không chí ít qua tuổi 13, để hiểu được điều đó, và khi thấm thía nỗi đau sẽ ám ảnh suốt đời ấy, nó cũng còn may mắn hơn nhiều đứa trẻ trong làng rồi!

Theo kết luận của Cục Kiểm soát an toàn bức xạ hạt nhân, mức độ phóng xạ mà người dân ở bản Dấu Cỏ phải chịu là 10.27 mili sivơ/1năm. Trong khi đó, theo các tài liệu khoa học, con người chỉ có thể chịu được 1 mili sivơ/1năm. Như vậy, mức độ phóng xạ ở Dấu Cỏ vượt ngưỡng hàng chục lần, không thể sinh sống và trồng trọt.

Thiệu Anh

Nguồn Tuổi Trẻ TĐ: https://tuoitrethudo.com.vn/60-nam-song-tren-lo-phong-xa-d2068920.html