50 năm xây dựng và phát triển

Ngày 22/11/2018, Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch (Bộ NN-PTNT) long trọng tổ chức kỷ niệm 50 năm ngày thành lập.

Trải qua 50 năm xây dựng và phát triển, Viện thực sự là cánh tay đắc lực cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho nền nông nghiệp nước nhà.

Cách đây 50 năm, ngày 11/4/1968 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp đã ra quyết định thành lập Viện Công cụ và Cơ giới hóa nông nghiệp, đánh dấu sự ra đời của một tổ chức nghiên cứu khoa học đầu ngành về lĩnh vực cơ giới hóa, điện khí hóa sản xuất (SX) nông nghiệp và phát triển nông thôn (NN-PTNT). Từ đó đến nay Viện đã trải qua nhiều tên gọi khác nhau như: Viện Công cụ và Cơ giới hóa nông nghiệp (1968 - 1994), Viện Cơ điện nông nghiệp và Chế biến nông sản (1994 - 1997) và Viện Cơ điện nông nghiệp (1997- 2003).

Ngày 11/4/2003, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT đã ra quyết định hợp nhất Viện Cơ điện nông nghiệp và Viện Công nghệ sau thu hoạch (thuộc Bộ Lương thực cũ) thành Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch ngày nay.

Những chặng đường phát triển

Trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước (1968 - 1975), ngay những năm đầu thành lập, Viện Công cụ và Cơ giới hóa nông nghiệp, dù gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn, song Viện đã bước đầu hình thành và xây dựng được nền tảng phát triển ngành cơ giới hóa SX nông nghiệp ở miền Bắc.

Sau ngày thống nhất đất nước (1975 - 1986), địa bàn hoạt động của Viện trải rộng khắp cả hai miền Nam Bắc. Các hệ thống máy và thiết bị phục vụ các khâu cơ giới hóa canh tác từ làm đất đến thu hoạch tiếp tục được phát triển đa dạng về chủng loại, năng suất, chất lượng ngày một nâng cao.

Bước sang thời kỳ đổi mới (1987 - 2000) SXNN gặp nhiều biến động, nền kinh tế thị trường bắt đầu hình thành, trong nông nghiệp thực hiện cơ chế khoán 10, ruộng đất bị chia nhỏ manh mún, hệ thống cơ giới hóa nông nghiệp từ trung ương xuống địa phương gần như phân rã. Từ thực tế đó, Viện chủ trương đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ phù hợp với đối tượng nông hộ. Trong sơ chế bảo quản nông sản cũng được ứng dụng rộng rãi các loại máy sấy; máy phân loại, làm sạch cùng nhiều loại máy trong lĩnh vực chăn nuôi, điện nông nghiệp…

Cũng trong giai đoạn này, Viện Công nghệ sau thu hoạch tiếp tục được củng cố và phát triển, nhiều đề tài nghiên cứu tập trung vào lĩnh vực công nghệ sinh học, công nghệ bảo quản và chế biến nông sản, kiểm tra đánh giá chất lượng nông sản thực phẩm. Sau khi hợp nhất, cơ cấu tổ chức của Viện được sắp xếp theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực phù hợp với chức năng nhiệm vụ mới bao gồm các lĩnh vực nông lâm thủy sản, các hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, đào tạo và hợp tác quốc tế của Viện đã được nâng lên một tầm cao mới.

- Về cơ cấu tổ chức và nguồn nhân lực:

Hiện nay, khối quản lý gồm 3 phòng chức năng. Khối nghiên cứu và triển khai gồm 16 đơn vị cấu thành và trực thuộc, trong đó 6 bộ môn nghiên cứu và bộ phận cấu thành gồm 1 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia Vilas 019; 10 trung tâm trực thuộc, trong đó có 8 trung tâm trực thuộc có con dấu riêng...

Đội ngũ cán bộ khoa học của Viện không ngừng trưởng thành và lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Từ ngày mới thành lập với một vài chục kỹ sư, kỹ thuật viên, đến nay số cán bộ viên chức của Viện đã lên đến gần 300 người, trong đó có 3 phó giáo sư, 21 tiến sĩ, 70 thạc sĩ, trên 120 kỹ sư được đào tạo bài bản từ các trường đại học uy tín trong và ngoài nước.

Cánh tay đắc lực cho Tái cơ cấu ngành nông nghiệp

Những năm gần đây, đặc biệt trong bối cảnh toàn ngành nông nghiệp thực hiện Đề án Tái cơ cấu, Viện đã có nhiều công trình nghiên cứu có hàm lượng khoa học công nghệ ngày càng cao, bám sát hơn với thực tiễn SX, góp phần đổi mới công nghệ nâng cao năng suất, chất lượng và giảm tổn thất sau thu hoạch cho các mặt hàng nông lâm thủy sản như:

+ Lĩnh vực cơ giới hóa phục vụ SX nông nghiệp: Quy trình và hệ thống máy làm đất chăm sóc cây mía, ngô và lạc; quy trình và hệ thống máy SX mạ khay công nghiệp; máy cấy mạ thảm 4 - 6 hàng; máy thu gom và đóng kiện rơm rạ; máy liên hợp thu hoạch lúa, ngô, lạc, mía; hệ thống thiết bị cơ giới hóa SX cây giống; hệ thống thiết bị điều khiển vi khí hậu trong nhà lưới, nhà kính; quy trình và hệ thống tưới tiết kiệm nước kết hợp bón phân…

+ Lĩnh vực bảo quản nông lâm thủy sản: Công nghệ và thiết bị SX chế phẩm tạo màng, công nghệ điều chỉnh khí quyển CA và công nghệ bao gói khí điều biến MAP ứng dụng trong bảo quản rau quả tươi; hệ thống thiết bị sơ chế, bảo quản rau quả tươi (packing house); hệ thống kho bảo quản lạnh và bảo quản đông, quy mô 100 - 2.000m3; công nghệ SX và ứng dụng chế phẩm 1-MCP để ức chế sản sinh khí ethylene nhằm kéo dài thời gian bảo quản rau quả; công nghệ xử lý cận thu hoạch để kéo dài thời gian chín trên cây bằng chế phẩm sinh học Retain; công nghệ SX một số chế phẩm vi sinh để phòng chống độc tố aflatoxin và ochratoxin A trên ngô, lạc, cà phê...

+ Lĩnh vực chế biến nông lâm thủy sản: Dây chuyền thiết bị đồng bộ SX hạt giống cây trồng, năng suất 1 - 2 tấn/h; dây chuyền thiết bị đồng bộ chế biến thức ăn chăn nuôi, năng suất 5 - 15 tấn/h; dây chuyền thiết bị đồng bộ SX colophan và tinh dầu thông, quy mô 5.000 - 10.000 tấn sản phẩm/năm; dây chuyền thiết bị SX bột cá, năng suất 2 - 3 tấn/h; dây chuyền thiết bị giết mổ gia súc, gia cầm quy mô tập trung; hệ thống thiết bị sấy tháp, quy mô 10 - 50 tấn/mẻ; hệ thống thiết bị sấy bơm nhiệt, quy mô 100 - 3.000 kg nguyên liệu/mẻ; công nghệ và thiết bị SX các loại mứt quả, năng suất từ 1 - 2 tấn/h; công nghệ và thiết bị SX một số thực phẩm chức năng từ rong biển, nấm dược liệu; dây chuyền thiết bị đồng hóa và xử lý nước ép trái cây đóng lon, năng suất 5.000 lít/h…

+ Lĩnh vực tận dụng phế phụ phẩm nông nghiệp: Dây chuyền thiết bị SX phân hữu cơ vi sinh từ rơm rạ; hệ thống lò đốt theo công nghệ tầng sôi, khí hóa và xoáy ly tâm sử dụng phế thải nông nghiệp; hệ thống thiết bị SX viên nén làm chất đốt từ rơm ra; công nghệ SX phân bón vi sinh đa chủng đa chức năng azotobacterin…

Công tác chuyển giao công nghệ

Song song với nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, công tác chuyển giao công nghệ luôn được Viện xác định là nhiệm vụ trọng tâm và là mục tiêu cho các đề tài/dự án nghiên cứu triển khai. Đặc biệt trong những năm gần đây, nhiều kết quả nghiên cứu của Viện liên tục được hoàn thiện và phát triển, bám sát thiết thực với nhu cầu thực tế của SX, được các doanh nghiệp (DN) chấp nhận. Theo đó, số lượng đặt hàng hàng năm từ các DN và địa phương ngày càng tăng, giá trị hợp đồng chuyển giao cũng liên tục gia tăng từ 100 - 300% so với 5 năm trước, trong đó nhiều DN lớn và tập đoàn đã tin tưởng và ký kết hợp tác thường xuyên với Viện trong công tác nghiên cứu và phát triển công nghệ như: Cty Cổ phần thực phẩm Đồng Giao; Tập đoàn Nafoods; Cty Cổ phần thông Quảng Ninh, Cty Cổ phần Dược thú y Hà Nội, Cty Cổ phần Sinh học Tân Việt, Cty TNHH Dũng Hà...

Đào tạo và hợp tác quốc tế

Viện được Bộ GD-ĐT giao chức năng đào tạo trình độ tiến sỹ với 2 chuyên ngành Kỹ thuật Cơ khí (từ năm 1991) và Công nghệ sau thu hoạch (từ năm 2012). Đến nay, Viện đã đào tạo được 25 tiến sỹ kỹ thuật, nhiều tiến sĩ sau khi bảo vệ luận án tại Viện đã trở thành những cán bộ khoa học chủ chốt tại các cơ quan nghiên cứu, quản lý, giảng dạy và chỉ đạo SX, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa học của ngành NN-PTNT.

Hiện Viện đã thiết lập quan hệ và duy trì hợp tác với trên 20 viện nghiên cứu và tổ chức quốc tế. Viện là cơ quan đầu mối của Trung tâm Cơ giới hóa nông nghiệp bền vững (CSAM) thuộc Ủy ban Kinh tế xã hội châu Á - Thái Bình Dương của Liên Hợp Quốc (UN-ESCAP), là cơ quan điều phối khoa học công nghệ lương thực thực phẩm ASEAN Việt Nam. Hợp tác với Mạng lưới Khảo nghiệm Máy Nông nghiệp Châu Á - Thái Bình Dương (ANTAM). Viện đang tiếp tục tham gia các dự án hợp tác nghiên cứu song phương với các nước và các tổ chức quốc tế như: Argentina, Katakura (Nhật), Viện Máy NN Nhật (IAM-BRAIN-NARO), UNIDO…

Nhiều cán bộ giỏi, dày dạn kinh nghiệm đã được cử làm chuyên gia sang giúp các nước đang phát triển như CuBa, Lào, Campuchia, Ăngôla, Môdămbich, Senegan, Ghine, Benanh, Irắc…

Ghi nhận những thành tích xuất sắc của Viện qua các thời kỳ, Nhà nước đã tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý: Huân chương Lao động hạng Ba (1981); Huân chương Lao động hạng Nhì (1985); Huân chương Lao động hạng Nhất (1995); Huân Chương Độc lập hạng Ba (2001); Huân chương Độc lập hạng Nhì (2008); Giải thưởng Nhà nước (2000) về công trình KHCN "Nghiên cứu cơ sở khoa học ứng dụng liên hợp máy kéo làm việc ở ruộng lúa nước Việt nam" và Công trình KHCN “Nghiên cứu một số chất dinh dưỡng bổ sung từ nông sản Việt Nam”…

Viện cũng đoạt nhiều Giải thưởng sáng tạo KH-CN Việt Nam (VIFOTECH); các Giải thưởng Bông lúa Vàng và nhiều Cúp vàng nông nghiệp; Huy chương TECHMART; Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp; Bằng sáng chế, v.v.

VIỆN TRƯỞNG - PGS.TS PHẠM ANH TUẤN

Nguồn Nông Nghiệp: https://nongnghiep.vn/50-nam-xay-dung-va-phat-trien-post231102.html