4 kịch bản cho giáo dục Việt Nam trước bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

Theo các chuyên gia giáo dục, để thực sự bước vào giáo dục (GD) 4.0, Việt Nam cần khoảng 15-20 năm với sự nỗ lực bền bỉ của Nhà nước, ngành Giáo dục, toàn xã hội. Vậy kịch bản khả dĩ nào cho GD 4.0 của Việt Nam?

Ảnh minh họa/internet

Ảnh minh họa/internet

Cơ hội và thách thức

Từ thực trạng kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay, TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến (Học viện Quản lý Giáo dục) tại Hội thảo khoa học “Chiến lược và kế hoạch GD trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0” do Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam tổ chức năm 2018, đã đưa ra 5 cơ hội và thách thức.

Về cơ hội, đó là: cơ cấu dân số vàng; mô hình tăng trưởng chuyển từ chiều rộng sang chiều sâu theo định hướng CMCN 4.0; ứng dụng ICT trong tổ chức và hoạt động GD; thị trường GD được khuyến khích, ưu tiên phát triển chuẩn thị trường GD; thể chế giáo dục được hoàn thiện theo hướng chuyển đổi mô hình quản lý từ chỉ huy, kiểm soát sang trao quyền, giám sát, phân cấp và tự chủ của nhà trường.

Về thách thức, cũng có 5 thách thức: vẫn còn trên 80% dân số từ 15 tuổi trở lên chưa có trình độ chuyên môn kỹ thuật; thói quen xây dựng hệ thống GD theo chiều rộng, tập trung vào cung vẫn chi phối tư duy hoạch định chính sách GD; ứng dụng ICT trong GD vẫn còn bề nổi, tụt hậu so với thế giới; hệ thống GD ngày càng phức hợp, với sự tham gia nhiều chủ thể; còn nhiều rào cản trong tự chủ nhà trường, thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực và trách nhiệm giải trình.

Bốn kịch bản cho GD 4.0

GD 4.0 của Việt Nam trong tương lai như thế nào tùy thuộc vào việc xây dựng chính sách và tổ chức thực hiện để phát huy cơ hội và vượt qua các thách thức của kinh tế - xã hội, với sự đan xen cả cơ hội và thách thức, TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến đề xuất 4 kịch bản cho GD 4.0 của nước ta.

Kịch bản 1: Việc xây dựng GD 4.0 chủ yếu dừng lại trên văn bản. Nguồn lực, cách thức tổ chức và phương thức quản lý không cải thiện đáng kể, kéo dài tình trạng kém liên thông và khó phân luồng. GD chính quy vẫn là lựa chọn số một trên con đường học vấn của người dân. Đào tạo tại nơi làm việc, doanh nghiệp ít được quan tâm. GD phi chính quy không phát triển. Hệ thống GD mở hình thành nửa vời, không đáp ứng yêu cầu đào tạo và đào tạo lại lực lượng lao động.

Kịch bản 2: Có tiến bộ trong khắc phục cung – cầu. Người học có thêm cơ hội trong lựa chọn trường học, cách học. Có sự đa dạng về trường lớp và chương trình GD, xuất hiện cạnh tranh. Cơ sở GD được nhiều quyền tự chủ hơn. Có sự gắn kết giữa thị trường đào tạo và thị trường lao động, chất lượng GD chuyển biến tích cực theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực. Tuy nhiên, sự xóa bỏ rào cản trong đào tạo nguồn nhân lực chuyển biến chậm, gia tăng sự phân tầng, mất công bằng trong hệ thống và người học.

Kịch bản 3: Có sự thay đổi cơ bản trong mạng lưới trường lớp, cách dạy, học. Hệ thống GD được tái cấu trúc triệt để cùng với ứng dụng của ICT trong xây dựng hệ thống GD mở. Đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực được mở rộng theo nhiều hình thức. Tuy nhiên, mô hình này khó thực hiện vì đòi hỏi nguồn lực lớn, hạ tầng công nghệ thông tin phát triển, quản lý hiện đại. Với cơ chế cung ứng độc quyền, nguồn lực con người và tài chính để xây dựng hệ GD mở bị hạn chế, có xu hướng đổi chất lượng lấy quy mô, GD 4.0 hình thành chậm và kém bền vững.

Kịch bản 4: Hệ thống GD mở không chỉ với hệ thống GD quốc dân mà mở rộng mạng lưới toàn xã hội. Có sự liên kết giữa nhà trường, viện nghiên cứu và doanh nghiệp trong cung ứng giáo dục. Cơ chế cạnh tranh lành mạnh cùng với sự tiến bộ công nghệ là chủ đạo và tạo nên sự đa dạng trong tổ chức và hoạt động GD. Người học được cá nhân hóa học tập trong lựa chọn trường học, cách học, chương trình học. Nguồn lực cho GD 4.0 được huy động mạnh mẽ từ thị trường. GD 4.0 hình thành nhanh hơn. Tuy nhiên, sẽ có nguy cơ không bảo đảm chất lượng và gia tăng mất công bằng xã hội.

Ảnh minh họa

Lựa chọn kịch bản nào?

Theo TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến, GD của chúng ta đang trong quá trình vận động từ kịch bản 1 sang kịch bản 2, việc cung ứng GD theo chuẩn thị trường và thị trường, còn việc tổ chức chưa thoát khỏi mô hình truyền thống. Với 4 kịch bản nêu trên, có thể hình dung GD Việt Nam trên con đường xây dựng GD 4.0 theo nhiều phương án như: từng bước chuyển sang kịch bản 2, 3, 4 hay một kịch bản trung gian nào đó.

Với 4 kịch bản này không chỉ có ý nghĩa trên phạm vi quốc gia mà còn giúp các tỉnh, thành phố trong cả nước xem xét, đối chiếu để đề ra chiến lược, kế hoạch GD 4.0 cho địa phương mình. Hiện nhiều tỉnh, thành phố xây dựng và triển khai đô thị thông minh, trong đó có thành phần “Giáo dục thông minh”, nhưng chắc chắn phương án, kế hoạch, trọng tâm đầu tư Giáo dục thông minh mỗi địa phương mỗi khác.

Nghị quyết số 19, Hội nghị Trung ương 6 (Khóa XII) xác định mục tiêu: “Đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống tổ chức và quản lý các đơn vị sự nghiệp công lập, đảm bảo tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; giữ vai trò chủ đạo, then chốt trong thị trường dịch vụ sự nghiệp công... Phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp công và thu hút mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia dịch vụ sự nghiệp công”.

Như vậy, trong định hướng xã hội hóa dịch vụ công, trong đó có GD ở nước ta đã chấp nhận thị trường và phát triển chuẩn thị trường GD. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển cũng nảy sinh những tiêu cực, nguy cơ mất công bằng trong tiếp cận GD của người dân, làm méo mó thị trường GD... Những tiêu cực và khó khăn này không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển GD nói chung, mà còn là trở lực lớn trên con đường tiến tới một nền GD 4.0 đích thực.

Vì vậy, để xây dựng nền GD 4.0, nền GD mở, học tập suốt đời, trong đó, nguồn lực đầu tư cho GD được phát huy mạnh mẽ từ Nhà nước, xã hội và thị trường, đòi hỏi cả xã hội, và nhất là ngành GD phải kiên quyết đẩy lùi vấn nạn tiêu cực từ các cơ quan quản lý, cho đến cơ cở GD và người làm GD. Mặt khác, cần đầu tư nhiều hơn cho giáo dục vùng khó khăn, hỗ trợ cho các đối tượng yếu thế để bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục 4.0 của người dân.

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/trao-doi/4-kich-ban-cho-giao-duc-viet-nam-truoc-boi-canh-cach-mang-cong-nghiep-40-Ztq7BSfMR.html